. . . . .
Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung do Ông Dương Văn Hiếu Chỉ huy. Trách nhiệm
của cơ quan này là đối đầu và vô hiệu hóa mọi hoạt động của những Điệp viên
thuộc hai cơ quan t́nh báo miền Bắc gởi vào Nam: Đó là Cục 2 Quân Báo và Cục
T́nh Báo Chiến Lược tức Nha Liên Lạc.
Tổ chức Điệp Báo của Cục 2 Quân Báo và Cục
T́nh Báo Chiến Lươc của Cộng Sản rất tinh vi, phương pháp hành động của chúng là:
Đơn Tuyến, Chia cách, và Bảo Mật tối đa. Chỉ Huy Trưởng Cục 2 Quân Báo tại Hà
Nội là Đại Tá Lê Trọng Nghĩa.
Tại Miền Nam, Bộ chỉ Huy Cục 2 Quân báo đóng tại
vùng núi Cao nguyên Trung phần thuộc Tỉnh Pleiku và Đại Tá Lê Câu làm Chỉ Huy
Trưởng. Trước 1954, Lê Câu với quân hàm Thiếu Tá, chỉ huy màng lưới Quân Báo các
Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Đại Tá Lê Câu bị Đoàn Đặc Nhiệm
miền Trung bắt vào năm 1961, khi y rời căn cứ về Sài G̣n, đến nhà Phạm Bá Lương
để tiếp xúc và nhận tài liệu mật của Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa do Phạm Bá
Lương cung cấp. Phạm Bá Lương là cơ sở nội tuyến của Đại Tá Lê Câu. Phạm bá
Lương làm tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Ḥa với chức Vụ Công Cán ủy Viên. Bộ
trưởng Ngoại Giao thời đó là ông Vũ Văn Mẫu. Sau 1975 Lê Câu giữ chức Vụ Tổng
Thanh Tra ngành Công An Việt Cộng.
Nhân vật kế tiếp bị Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung
bắt là Trần Quang, Thường vụ Tỉnh Đảng Bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng Bộ
Liên Khu 5 bổ nhiệm làm trưởng lưới Điệp Báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và
các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần. Nguyễn Vĩnh Nghiệp cán bộ đặc trách Khu ủy Sài
G̣n Tư Hùng Cán Bộ Đặc Khu Sài G̣n. Toàn bộ là Đảng viên Cộng sản nằm trong Tổng
Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền
Trung. Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5 gồm các tỉnh Đảng Bộ từ Quảng
Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành
và chỉ đạo mọi sách lược của Đảng Cộng Sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư
Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài G̣n vào năm
1958.
Nguyễn Lâm, trưởng Ban Điệp báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền
Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Saig̣n.
Mục tiêu kế tiếp của Đoàn Công Tác Đặc
Nhiệm Miền Trung là Cục T́nh Báo Chiến Lược Việt Cộng hay Nha Liên Lạc. Chỉ huy
trưởng Tổng Cục T́nh Báo Chiến lược Việt Cộng là Trần Hiệu. Người chỉ huy Cục
T́nh báo Chiến Lược Việt Cộng tại Miền Nam Việt Nam là Trần Quốc Hương tự Trần
Ngọc Trí tức Mười Hương.
Mười Hương là Khu Uỷ Viên là Chính Ủy. Từ miền Bắc hắn vào miền Nam với nhiệm vụ
kiểm tra và chỉ đạo mọi công tác của Cục T́nh Báo Chiến Lược Việt Cộng tại miền
Nam, đồng thời phân tích và lượng giá t́nh h́nh quân sự và chính trị của chính
Phủ Việt Nam Cộng Ḥa để Trung Ương Đảng tại Hà Nội có kế hoạch đối phó. Mười
Hương đă bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt tại Sài G̣n vào tháng 7 năm 1958.
Minh Vân tức Đại Tá Nguyễn Đ́nh Quảng được Cục T́nh Báo Chiến lược Việt Cộng Hà
Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào năm 1954. Bị Đoàn Công Tác Miền
Trung bắt vào năm 1958. Trần Tấn Chỉ, nguyên phó Trưởng Ban T́nh báo thành phố
Hải Pḥng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành T́nh Báo Chiến Lược. Theo lệnh của
Tổng Cục Trưởng Trần Hiệu xâm nhập miền Nam hợp pháp bằng cách nhập vào đoàn dân
di cư vào Nam 1954. Tại Sàig̣n, y đă len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của
ṭa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và
bắt giữ vào năm 1958.
Đại Tá Văn Quang tức Trang Công Doanh, cán bộ ṇng cốt của Cục T́nh Báo Chiến
lược. Đại Tá Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc Khu Saigon
- Chợ Lớn Cộng Sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ,
Saig̣n. Đại Tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958.
Lê Thanh
Đường, phái khiển T́nh Báo. Thuộc Cục T́nh Báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954
vào Nam. Nghề Nghiệp hợp pháp tại Sàig̣n: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại
Sàig̣n. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959.
Tôn
Hoàng, phái khiển T́nh Báo,Cục T́nh Báo Chiến Lược Cộng Sản. Theo đợt di cư
1954 vào Nam,Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959.
Dư
Văn Chất, phái khiển T́nh Báo, Cục TBCL Cộng Sản,
theo đợt di cư 1954 vào Saig̣n, chức vụ Trưởng Lưới T́nh Báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại
Saig̣n.
Sau 1975 Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy Viên Thành Ủy Đảng Bộ TP/HCM kiêm
Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành Ủy.
Nguyễn Văn Hội, Trưởng pḥng Giao Thông Cục T́nh
Báo Chiến lược. Trước 1954 Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo Của Liên Khu Ủy
5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục
TBCL Việt Cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm
1958.
Hoàng Hồ, phái khiển T́nh Báo. Cục T́nh Báo Chiến Lược Cộng Sản. Hoàng Hồ
là Chủ Nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sàig̣n. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm
Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Ḥa y là Dân Biểu.
Vũ Ngọc Nhạ, Điệp Viên
thuộc Cục TBCL Cộng Sản. Bị Đoàn CTĐBMT bắt lần 1 tại Sàig̣n. Sau đó bị Đại Tá
Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và bộ
phận Đặc Biệt của ông gồm những người cũ trong Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền
Trung của Ông Dương Văn Hiếu bắt lần thứ 2, và triệt tiêu Cụm A 22 TBCL khi y
xâm nhập tiếp cận với Phủ Tổng Thống VNCH.
Trước đó, hầu hết những cán bộ Cộng Sản thuộc Cục 2 Quân Báo và Cục T́nh Báo
Chiến Lươc Cộng Sản bị Đoàn CTĐBMT bắt giữ đều được đưa ra Huế giam giữ tại lao
Thừa Phủ (Mặt sau ṭa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị Xă Huế) hoặc Chín Hầm. Những ngày đầu của cuộc Cách Mạng 1-11-1963, Cục 2 Quân Báo,và Cục T́nh Báo
Chiến Lược Cộng Sản qua Thầy tu Thích Đôn Hậu, Trí Quang, và Phái Khiển T́nh Báo,
Điệp viên Hoàng Kim Loan đă giải thoát một số bọn chúng tại Chín Hầm.
Số c̣n lại
cách đó không lâu, đă được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đưa vào SàiG̣n, và Chủ
Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng là Trung Tướng Dương Văn Minh, và Thiếu Tướng
Mai Hữu Xuân, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát đă trân trọng trả tự do cho bọn
Cộng Sản này vào đầu năm 1964. Để rồi bọn chúng tái hoạt động mạnh hơn, tinh vi
hơn, tung hoành ngang dọc, tổ chức và gài người cùng khắp mọi đoàn thể chính trị,
đảng phái, cơ quan dân sự hành chánh cũng như trong Quân Đội mà không một ai dám
đụng đến bọn chúng kể cả các Tướng Lănh trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đến
các chỉ Huy trưởng mọi cơ quan T́nh Báo Dân Sự cũng như T́nh Báo Quân Đội, và
ngay đến các vị tướng Tư Lệnh các Quân Khu, có gan to bằng trời cũng không dám
đụng đến bọn cán bộ Cộng Sản thứ thiệt và đám Việt Cộng đội lốt Thầy Tu này, v́
đụng đến bọn chúng là bị chụp mũ: Tàn dư chế độ Nhu, Diệm, dư Đảng Cần Lao, đàn
áp Quí Thầy và Phật giáo đồ, lập tức bị biểu t́nh đả đảo và bay chức ngay.
Sau 1-11-1963, Thích Trí Quang là Đấng Quốc Phụ của miền Nam Việt Nam, không một
Chính Phủ nào tại Trung Ương Sàig̣n có thể đứng vững quá 3 tháng nếu đi lệch
hướng chỉ đạo của ông ta. Tướng lănh trong Hội Đồng Cách Mạng bắt đầu thanh toán
nhau tranh dành Ngôi Báu. Tướng lănh lợi dụng Trí Quang để có được hậu thuẫn
quần chúng Phật giáo, Trí Quang dùng Tướng lănh cho mưu đồ và tham vọng của hắn.
Các cuộc biểu t́nh lên đường, xuống đường chống chính phủ diễn ra hằng ngày tại
Saig̣n, nay đảo chánh mai chỉnh lư, cứ như vậy tiếp tục cho đến cuối năm 1965. Mỗi lần nghe nhạc hùng trên đài phát thanh Sàigon, Huế là biết ngay có đảo chánh.
Đặc biệt nhất là cuộc chỉnh lư của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn
Bảo Kiếm do bàn tay của Cục TBCL Cộng Sản đạo diễn.
Ngày19 tháng 2 năm 1965 tại
Saig̣n, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là
Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân Lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm.
Nếu cuộc đảo chánh thành công th́ Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn
Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Côïng Ḥa. Cũng may, nhờ
mấy anh Cố Vấn Mắt xanh mũi lơ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn
Phát không thành công như Trung Ương Đảng Cộng Sản Hà Nội mong đợi, và sau đó
1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Ḥa. Sau
1975, Phạm Ngọc Thảo được Trung Ương Đảng Coông Sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo
Kiếm cũng lộ nguyên h́nh, hai tên nầy là điệp viên của Tổng Cục 2 TBCL Cộng Sản.
Tại Huế trong thời gian này, t́nh h́nh cũng rối loạn không khác ǵ Saig̣n. Hằng
loạt các cuộc đ́nh công, băi thị, băi khóa, biểu t́nh chống chính phủ. Mọi sinh
hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. T́nh h́nh an ninh tại Thừa Thiên- Huế
suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt Cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm
ḍ ngay ṿng đai an ninh gần của thành phố.
Tháng 2-1965 Công Trường 5 Đặc Công
của Đại tá Việt Cộng Thân Trọng Một, tung 2 tiểu đoàn đặc công K 1, K 2 tấn công
quận lỵ Nam Ḥa phía tây thành phố Huế. Quận lỵ Nam Ḥa cách thành phố chưa đầy
10Km. Cuộc tấn công của Việt Cộng bị lực lượng quân sự tại Chi Khu Nam Ḥa phản
công và đẩy lui. Trong khi đó Chỉ huy hai cơ quan chịu trách nhiệm an ninh tại
thành Phố Huế là Ty Công An Thừa Thiên và ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xă Huế là hai
nhân vật được Trí Quang và Đôn Hậu đề cử.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xă Huế
là Nguyễn văn Cán thường được gọi là Quận Cán v́ đương sự có bằng Cử Nhân Luật
ngạch Quận Trưởng(Commissioner), đương sự có anh ruột là cán bộ Cộng Sản quân
hàm Đại Tá. Quận Cán là Cơ sở của Cục T́nh Báo Chiến Lược Việt Cộng, cán bộ điều
khiển của y là Hoàng Kim Loan. Trưởng Ty Công An tỉnh Thừa Thiên là Lê Văn Phú. Phú là em rể của Nguyễn văn Cư, đệ tử thân tín của Thích Đôn Hậu. (Sẽ đề cập đến
Quận Cán tên điệp viên Côïng Sản này ở phần sau). Thời gian này hai ty Cảnh sát
chưa sáp nhập, một bên là ty Công An Thừa Thiên, một bên là ty Cảnh Sát thị Xă
Huế.
Đến tháng 6-1966, khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan làm Tư Lệnh Cảnh Sát, ông cho
sát nhập 2 thành một, gọi là Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị
Xă Huế, để tiện điều hành và thống nhất chỉ huy. Về Quân Sự, hai tỉnh Quảng Trị
và Thừa Thiên - Huế gọi là Khu 11 Chiến thuật, dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Sư
Đoàn I.
Ông đúng nghĩa là một ông Tướng của chiến trận không phải là một nhà
chính trị, v́ thế dễ dàng bị Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu xỏ mũi kéo đi. Chung quanh ông Tướng toàn là người của Trí Quang và Đôn Hậu cài vào. Nhất cử
nhất động của ông Tướng đều được các cơ sở của hai tên nầy báo cáo đầy đủ lên
Trung Tâm Quyền Lực Từ Đàm. Ông Tướng nghĩ rằng lợi dụng được Thích Trí Quang và
Đôn Hậu th́ có thể dùng lực lượng đông đảo Phật Giáo Đồ tại Huế và miền Trung,
để áp lực với Chính Phủ Trung Ương cho quyền lợi và mưu đồ riêng của ông.
Thế
nhưng ông Tướng đă lầm, lầm to, lầm lớn.
Ông chưa đủ mưu mô thủ đoạn khôn ngoan
để lợi dụng Thích Trí Quang, Đôn Hậu và đằng sau là Hoàng Kim Loan, là Cục TBCL
Cộng Sản. Ngược lại, bọn chúng cho ông vào tṛng, lợi dụng ông và dùng Sư Đoàn I
BB của Ông làm lực lượng ṇng cốt trong cuộc khởi loạn miền Trung năm 1966, để
rồi phải gánh chịu hậu quả là ông bị rời khỏi quân đội, rời khỏi quê hương, lưu
đày ở xứ Cờ Hoa từ 1966 cho đến nay.
Nhắc đến Trung tướng Nguyễn chánh Thi, ai
cũng biết ông là chuyên viên, là vua đảo chánh. Ngày 11-11-1960 ông đảo chánh
Tổng Thống Diệm, thất bại ông chạy sang Cao Miên. Ngày 1-11-1963 Tướng lănh đảo
chánh thành công ông từ Cao Miên về làm Tư Lệnh Sư Đoàn I BB, rồi Tư Lệnh Quân
Đoàn I, Quân Khu I với cấp bậc Trung Tướng. Mỗi khi bất b́nh chính phủ Trung
Ương ông lên máy bay vào Sài G̣n đảo chánh, v́ thế ông Tướng mới có biệt danh là
Vua đảo chánh.
Vụ khởi loạn tại miền Trung - Huế của Thích Trí Quang và Đôn Hậu quá dài gịng và
mọi người đều biết, tôi chỉ nói những điểm chính mà thôi. Đầu tháng 6-1965,
t́nh h́nh Chính trị tại Saig̣n tạm ổn định. Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia ra đời do
Quân đội nhận lănh trách nhiệm. Chủ Tịch là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Sau đó
ngày 19-6-1965, Nội Các Chiến tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập. Thiếu Tướng KQ Nguyễn cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ
tướng). Nh́n vào thành phần Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia và Nội các Chiến tranh, hầu
như không có người của Thích Trí Quang. Phản ứng đầu tiên của Trí Quang là gặp
Đại Sứ Mỹ Tại Sàig̣n tỏ ư muốn tổ chức đảo chánh lật Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đại Sứ Mỹ hỏi Trí Quang: Nếu đảo chánh lật Thiếu Tướng Kỳ th́ Thượng Tọa đưa ai
thay thế, Trí Quang không trả lời được câu hỏi của Đại Sứ Mỹ, lẳng lặng ra về.
Thích Trí Quang từ Sàigon ra Huế, phát động cuộc dấy loạn miền Trung. Bộ Chỉ Huy
đầu năo cuộc tranh đấu Miền Trung của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Thích Trí
Quang lănh đạo đặt tại Chùa Từ Đàm. Mục đích của Trí Quang khi phát động cuộc
tranh đấu Phật Giáo Miền Trung là lật đổ Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia và Chính Phủ
Trung Ương do Quân Đội nắm giữ, qua đại diện là Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu một
tín đồ Thiên Chúa Giáo, và Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ, hầụ để nắm lại quyền chủ
động kiểm soát và sắp đặt nhân sự từ Chính phủ Trung ương đến địa phương, mà y
đă dần dần mất đi sau ngày 1-11-1963 và sau các cuộc chỉnh lư, đảo chánh của
Tướng lănh tại Sàigon. H́nh ảnh một Trí Quang trong cuộc Cách Mạng 1963 đối với
các Tướng Lănh trẻ và quần chúng miền Nam đă mờ nhạt và như vậy Ngôi Quốc Phụ
của y khó đứng vững.
Yêu sách đầu tiên của Trí Quang là yêu cầu Chính Phủ soạn thảo Hiến Pháp mới, tổ
chức bầu cử Quốc Hội Lập Pháp và đả đảo Thiệu Kỳ, đả đảo chế độ Quân Phiệt, đả
đảo dư Đảng Cần Lao. Từ cuối tháng 2-1966, Miền Trung và Thừa Thiên-Huế bắt đầu
dậy sóng. Theo lệnh của Trí Quang và Thích Đôn Hậu, quần chúng Phật Giáo đồ Ấn
Quang Miền Vạn Hạnh chuẩn bị xuống đường ào ạt. Đầu tháng 3-1966, cuộc dấy loạn
bắt đầu. Các Khuôn Hội Phật Giáo từ Xă, Quận, Tỉnh, Học Sinh, Sinh Viên Đại Học
Huế băi Khóa. Tiểu thương Chợ Đông Ba và Thành Phố Huế đ́nh công băi thị, chợ
không đông, phố xá đóng cửa. Mọi sinh hoạt thường nhật của dân chúng hoàn toàn
bị tê liệt. Hàng loạt các cuộc biểu t́nh diễn ra trên đường phố, từ đường Lê
Lợi, qua cầu Tràng Tiền, khu phố Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu. Khẩu hiệu đả đảo
Thiệu, Kỳ, đả đảo Quân Phiệt, đả đảo dư đảng Cần Lao được nghe suốt ngày đêm.
Màn thứ 2, kế tiếp Thích Trí Quang cho tổ chức các lực lượng xung kích: Đoàn Học
Sinh, Sinh Viên Quyết Tử, lẽ dĩ nhiên trong đó gồm cơ sở Học Sinh, Sinh Viên Cơ
Sở Nội Thành Việt Cộng. Tất Cả Đoàn viên quyết tử đều mang băng đỏ, Cảnh sát
Phật tử, Công Chức Phật Tử, Quân Nhân Phật Tử, Tiểu thương Phật Tử. Vẫn tiếp tục
lên đường xuống đường hằng ngày, loa phóng thanh đặt mọi ngă đường trong thành
phố rộn ră kêu gọi dân chúng xuống đường, đ́nh công băi thị, chống Thiệu Kỳ.
Màn thứ 3, kế tiếp: Bạo Động. Cướp Chính Quyền.
Màn này có sự đạo điễn của Cục T́nh Báo Chiến Lược Cộng Sản Hà Nội. Cán bộ Cục
TBCL Cộng Sản Hoàng Kim Loan nhảy vào cuộc. Một nửa quân số của Sư Đoàn I BB,
các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân các quận, buông súng trở về thành phố
tham gia cuộc nổi loạn chống Thiệu, Kỳ và chính Phủ Trung Ương. Nhóm Quân Nhân
Phật Tử thành lập Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức.
Công Chức các ngành, Giáo chức mọi cấp nghỉ việc, nghỉ dạy, tham gia tranh đấu
chống chính ph ủ. Thích Trí Quang cho lệnh chiếm Đài phát thanh Huế. Đài Phát
Thanh Huế của Chính Phủ trở thành Đài Phát Thanh của Lực Lượng tranh đấu Phật
Giáo miền Trung. Hằng giờ phát đi lời kêu gọi của Trí Quang và của Bộ Chỉ Huy
Lực Lượng Tranh Đấu tại Từ Đàm, xen kẽ chương tŕnh là nhạc tranh đấu và nhạc
phản chiến của Trịnh Công Sơn. Dân Huế hằng giờ nghe rền rỉ bên tai bản nhạc: Kẻ
thù ta đâu phải là người.. Giết người đi th́ ta ở với ai...
Trong khi đó th́ một phần của lực lượng Học Sinh, Sinh Viên quyết tử chiếm
Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Thành
Phố Huế.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên người của Thích Đôn Hậu, Trưởng
Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xă Huế Nguyễn văn Cán là Cán Bộ Cộng Sản nằm vùng
cơ sở của CụcTBCL Hoàng Kim Loan.
Bọn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử này phá kho súng của 2 Ty Cảnh Sát, trang
bị cho hàng ngàn đoàn viên Quyết Tử. Khoảng gần 4000 ngàn súng, gồm tiểu
liên, Shotgun, và súng lục, 120 thùng lựu đạn M 26. Khoảng 100 xe Jeep Cảnh
Sát và toàn bộ máy móc truyền tin bị bọn chúng lấy đi. Bọn chúng dùng xe,
máy móc truyền tin, và súng của Cảnh Sát tuần tiểu và canh gác trong thành
phố.
Thích Trí Quang và Hoàng Kim Loan đi xa hơn nữa là cho lệnh Đoàn HS,SV Quyết
Tử bao vây Ṭa Tổng Lănh Sự Mỹ, tại Đường Lư Thường Kiệt, Quận 3 thành phố
Huế, và nhào vô đốt phá tan tành pḥng Thông Tin Hoa Kỳ tại Huế.
Bây giờ th́ Miền Trung và Thừa Thiên-Huế hoàn toàn vô Chính Phủ, không c̣n
có luật pháp quốc gia. Mọi quyền hạn nằm trong tay Quốc Phụ Thích Trí Quang
và đám tranh đấu áp dụng luật Rừng trong thành phố. Bọn chúng chia ra từng
tổ, từng toán gơ cửa mỗi nhà, yêu cầu tham gia phong trào tranh đấu, gia
đ́nh nào lơ là hoặc từ chối, bị chúng phao vu là dư đảng Cần Lao, hoặc là
người của Thiệu, Kỳ, lập tức bị dọa nạt đốt nhà đốt cửa, hoặc bị hành hung. Một số gia đ́nh đă phải bỏ nhà, trốn vào làng Phú Cam nơi an toàn khu, v́
nơi đây là khu Công Giáo, Trí Quang và đám Quyết Tử chưa dám đụng đến. Đời
sống dân chúng mỗi ngày một khó khăn, dân chúng hoang mang lo sợ. Quân đội
và Công Chức sống nhờ vào đồng lương của Chính Phủ, bây giờ đ́nh công băi
thị, chống chính phủ th́ lương hàng tháng có đâu để nuôi vợ, con. Một số ít
đơn vị quân sự đang ở vị trí hành quân tác chiến cũng gặp trở ngại không
nhỏ. Quân số thiếu hụt trầm trọng, v́ một số lớn sĩ quan và binh sĩ bỏ đơn
vị về thành phố tham gia tranh đấu. Đạn dược và điện tŕ truyền tin cho hệ
thống hành quân tác chiến bị hạn chế tối đa v́ không c̣n được cung cấp từ
Trung Ương.
T́nh h́nh an ninh tại Quảng Trị và Thừa Thiên ở mức báo động đỏ. Các Công
trường 4,5,6 của Quân Khu Trị Thiên Việt Cộng lởn vởn ở ṿng đai an ninh xa,
phía Tây của thành Phố Huế. Trong ḷng Cố Đô Huế th́ đám cán bộ và cơ sở nội
thành của Cộng Sản công khai hoạt động. Bọn chúng nằm trong bộ chỉ huy của
lực Tranh Đấu, nắm giữ những vai tṛ then chốt và quan trọng, tỷ như: Nguyễn
Đắc Xuân sinh viên Sư Phạm.
Trần Quang Long sinh viên Sư Phạm Hoàng Phủ Ngọc Phan sinh viên Y khoa Phan
Chánh Dinh tức Phan Duy Nhân sinh viên Nguyễn Thiết tức Hoàng Dung sinh viên
Luật Khoa Hoàng Phủ Ngọc Tường Giáo Sư Trường Quốc Học. Nguyễn Hữu Châu Phan
sinh viên Hoàng Thị Thọ nữ sinh Đồng Khánh. Phạm thị Xuân Quế sinh viên Y
Khoa. Tôn Thất Kỳ sinh viên. Bửu Chỉ sinh viên Và nhiều.. nhiều nữa.. (Khi
cuộc dấy loạn miền Trung bị dẹp tan, Hoàng Kim Loan đưa đám nầy ra mật khu,
và năm Mậu Thân 1968 bọn chúng trở lại Huế bắn giết, tàn sát vô số kể đồng
bào vô tội)
Trí Quang và Cộng Sản đă ước tính sai khi tung ra cuộc dấy loạn Miền Trung
năm 196 6. Vào năm 1963 Tướng Lănh và Mỹ dùng Trí Quang và quần chúng Phật
giáo để lật đổ Tống Thống Ngô Đ́nh Diệm. Bây giờ là 1966, Trí Quang không
c̣n có giá trị lợi dụng nữa. Đối với các Tướng Lănh VNCH đang nắm quyền th́
Trí Quang là một trở ngại, một chướng ngại vật trên bước đường công danh và
sự nghiệp của họ, chướng ngại vật này phải được dẹp bỏ.
C̣n đối với người Mỹ và đặc biệt là cơ quan t́nh báo của họ, phương tiện nào
cũng tốt, miễn là đạt được mục đích, quốc gia hay cộng sản cũng vậy thôi. Họ
dư biết Trí Quang là Cộng Sản, là đảng viên Cộng sản, và trong hàng ngũ của
Trí Quang có quá nhiều cán bộ Cộng Sản nằm vùng. Nhưng v́ nhu cầu, họ vẫn
tạo h́nh tượng Thích Trí Quang cho hào quang bóng nhoáng. Sau 1963 h́nh
tượng đó không c̣n cần thiết nữa mà c̣n tạo nhiều trở ngại, th́ Trí Quang
phải được dẹp bỏ.
Năm 1966 Mỹ đang đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Chính phủ Mỹ đang cần một hậu
phương Miền Nam ổn định chính trị. Trí Quang và Côïng Sản đă quá lầm lẫn,
nếu không nói là ngu, khi phát động Phong Trào Tranh Đấu Miền Trung trong
thời gian này. Dưới mắt ông Đại Sứ Mỹ tại Sài g̣n bấy giờ th́ Trí Quang là
một kẻ gây rối, một kẻ tham, sân, si, say mê quyền lực và một trở ngại lớn
của Ṭa Đại Sứ Mỹ cho việc ổn định t́nh h́nh chính trị tại Saig̣n. Trí Quang
phải được dẹp bỏ lập tức, mạnh mẽ, không nương tay, không nhân nhượng.
Người Mỹ giúp mọi phương tiện cần thiết cho Chính Phủ Saig̣n mở cuộc hành
quân dẹp loạn tại MiềnTrung.
Ngày 4-4-1966 bằng phương tiện Không Vận của Hoa Kỳ, lực lượng Quân Lực VNCH
đổ quân xuống Đà Nẵng.
Tư lệnh Sư Đoàn I BB là Tướng Nguyễn văn Chuân, Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân
Khu I Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Tướng Chuân được cử thay thế Trung Tướng
Thi, Trung Tướng Thi bay ra Huế. Như đă biết, Trung Tướng Thi là người của
Trí Quang.
Những ngày kế tiếp Trung Tướng Nguyễn Hữu Có ra Đà Nẵng gặp Tướng Nguyễn văn
Chuân, sau đó Tướng Chuân theo Trung Tướng Có vào Sàig̣n.
Sàig̣n cử Trung Tướng Tôn Thất Đính ra Đà Nẵng thay thế Trung Tướng Thi, mọi
chuyện không ổn, Trung Tướng Đính phải chạy vào BCH của Thủy Quân Lục Chiến
của Mỹ xin tỵ nạn.
Chính Phủ lại cử Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra thay Trung tướng Đính.
Thiếu
tướng Huỳnh văn Cao là tín đồ Công Giáo. Khi từ Đà Nẵng đến Huế cùng với
viên đại tá Cố Vấn phó Quân Đoàn là Arch Hamblen, Thiếu tướng Cao đă bị các
Lực Lượng Tranh Đấu do đám Sinh Viên Hoc Sinh Quyết Tử cầm đầu biểu t́nh
phản đối. Đoàn biểu t́nh hàng ngàn người bao vây, Tướng Cao và đoàn cận vệ
khó khăn lắm mới chạy thoát vào sân bay Tây Lộc, thành nội. Tại đây một phi
cơ trực thăng của quân đội Hoa Kỳ đợi sẵn để đưa ông vào Đà Nẵng. Đoàn biểu
t́nh rượt theo tướng Cao và đại tá Arch Hamblen vào tận sân bay Tây Lộc,
Trực thăng chở tướng Cao và đại tá Arch Hamblem vừa rời khỏi mặt đất vài
chục mét th́ trong đoàn biểu t́nh, viên sĩ quan của Sư Đoàn I BB, trung úy
Nguyễn Đại Thức rút súng lục bắn tướng Cao, may mắn ông không bị trúng đạn,
lập tức xạ thủ đại liên của trực thăng, viên hạ sĩ quan người Mỹ, nổ súng
đại liên bắn trả, trung úy Nguyễn Đại Thức chết gục tại chỗ. Những ngày sau
khi Thích trí Quang thành lập Chiến Đoàn Quân Nhân Phật Tử của Sư Đoàn I BB,
cho lấy tên viên sĩ quan nầy đặt tên cho Chiến đoàn, gọi là Chiến Đoàn Quân
Nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức.
Cũng giống Trung tướng Tôn Thất Đính, Thiếu tướng Huỳnh văn Cao vào Đà Nẵng,
nơi đặt BCH Quân Đoàn I. Thiếu tướng Cao liên lạc với tướng Tư Lệnh Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và tỵ nạn tại đó .
Bây giờ th́ miền Trung và Thừa Thiên Huế hoàn toàn vô Chính Phủ, mặc sức
Thích Trí Quang và đám Cộng Sản Hoàng Kim Loan tung hoành. Dân chúng sống
từng giờ trong nơm nớp lo sợ: sợ Thầy, sợ Việt Cộng, sợ các Đoàn Học Sinh,
Sinh Viên Quyết Tử của Thầy. Công chức, quân nhân sợ không được lănh lương,
vợ con đói.
Vị Tướng kế tiếp được Chính Phủ cử ra làm Tư Lệnh Quân Đoàn I là Thiếu Tướng
Trần Thanh Phong. Thiếu Tướng Phong đến Đà Nẵng đúng vào thời gian cao điểm
của phong trào Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung. Ông chuẩn bị cho cuộc đổ quân
ra Huế dẹp loạn. Trong khi đó th́ tại Huế lực lượng chống lại phong trào
tranh đấu được phân loại như sau:
1- Thành phần chống đối tiêu cực:
Khối Công giáo: Đại đa số tín đồ Thiên Chúa Giáo sống tại làng Phú Cam nơi có
nhà thờ Chính Ṭa Phú Cam, vùng ḍng Chúa Cứu Thế, nơi có nhà thờ và ḍng tu,
ḍng Chúa Cứu Thế, vùng Gia Hội có nhà thờ Gia Hội, vùng Kim Long nơi có Ḍng Tu
kín của các Nữ tu. Họ chống lại Phong trào Tranh Đấu nhưng tiêu cực, các vị lănh
đạo không muốn giáo dân vướng vào ṿng xung đột của hai tôn giáo là Phật Giáo và
Thiên Chúa Giáo. Khu an toàn Phú Cam được giáo dân canh gác, đề pḥng cẩn mật v́
sợ các đoàn Quyết Tử của Phong Trào Tranh Đấu quấy phá. Họ sẵn sàng chống trả
chỉ trong trường hợp tự vệ. Đại đa số trầm lặng là giáo chức, thành phần trí
thức, những người lớn tuổi, và Hoàng Tộc, họ đều bất b́nh và chống lại cuộc
Tranh Đấu Miền Trung nhưng họ chỉ giữ thái độ im lặng và không hợp tác.
. . . . .