Cha Tôi

Quỳnh K19


       Tôi lớn lên trong tình thương yêu đùm bọc của ông bà nội và chú Út. Căn nhà ngói ba gian nằm lọt thỏm sau nhiều lớp rừng cao su xanh um thuộc ngoại ô Thi xã Xuân Lộc, Long Khánh đã ấp ủ tuổi thơ tôi trọn vẹn. Ông bà tôi nay đã già đi nhiều. Chú Út dạy học ở trường cấp ba, còn độc thân. Tôi không còn nhớ bóng dáng ba mẹ tôi lâu lắm rồi. Nhiều lý do lắm. Theo lời ông bà tôi kể: trước kia gia đình tôi ở Biên Hòa. Ba tôi là sĩ quan hiện dịch thuộc tiểu đoàn 44 BĐQ, bị thương trong trận Vĩnh Lợi-Cà Mau, nằm Quân y viện hai tháng, khi lành thì về làm việc ở ban hành quân, thuộc bộ tư lệnh quân khu IV. Ba bận quân vụ, vắng nhà thường xuyên. Mẹ tôi đẹp và quý phái lắm. Mẹ làm chủ một cửa hàng dược phẩm lớn trong thành phố. Nhà khá giả, thong dong, nhưng lập gia đình gần năm năm, mẹ mới có bầu thằng tôi. Ngày tôi ra đời đúng giữa mùa Hè đỏ lửa, nên ba đặt tên tôi là Quý Hạ, ghi dấu dữ kiện đứa con quý hiếm ra đời trong mùa Hè chiến tranh dữ dội. Cả tộc họ dồn tình thương vào tôi. Ông bà tôi mừng còn hơn trúng số. Còn ba dành nhiều thì giờ gần gũi mẹ con tôi hơn. Mẹ tôi cưng tôi như trứng, quấn quýt bên tôi không rời.

Nhưng đại họa đã giăng mắc toàn miền Nam. Ngày 30 tháng Tư-1975, dép râu lộn sòng giẫm nát miền đất Việt Nam Cộng hòa Tự do-Phú cường. Dân tình bỗng chốc ly tan. Cuộc sống nhà nhà tuột dốc, rơi tòm xuống vực đói nghèo, cùng cực chưa từng thấy. Tôi chưa tròn ba tuổi, ba đã thành tù khổ sai tận miền Bắc, mẹ bị tước đoạt tài sản đuổi đi kinh tế mới. Mẹ đã liều mạng ôm tôi về tá túc nhà ông bà nội ngay. Được vài tháng, thấy chẳng thể ở không, chung cảnh khổ cùng cha mẹ già, mẹ tôi theo bạn bè đi buôn. Hầu như các bà nội trợ có chồng bị tù đày, gần như đồng loạt bước hẳn ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, làm cột trụ, thay thế chồng cáng đáng gánh nặng gia cang. Các bà mẹ chạy vạy đủ nghề, xoay xở đủ mặt đắp đổi vừa nuôi chồng ở tù xa xứ, vừa nuôi đàn con dại bơ vơ.

       Mẹ tôi đi về thường ngày, mua thức ăn phụ cho nội và dành để phần gửi thăm nuôi ba hàng quý. Nhưng, dần dần, buôn bán bị cấm đoán, bọn quản lý thị trường ruồng bắt gắt gao, mẹ trốn lánh, ít khi về nhà. Từ đó, tôi gắn bó với ông bà và chú Út hơn mẹ. Cho đến khi mẹ không về nhà nữa...Cả nhà hoang mang dò tìm gần cả năm trời mới hay tin mẹ. Người quen xác quyết mẹ đã vượt biên, nhưng không ai biết tin mẹ còn hay mất, mẹ ở đâu? Cả nhà đau thương âm thầm. Ông nội dặn dò không ai được bàn tán gì thêm, mặc ông toan liệu. Tôi thui thủi lớn lên, không còn hơi ấm của mẹ. Ông bà và chú nén buồn rầu trút hết tình thương, ân cần chăm sóc, dành ưu tiên mọi thứ cho tôi, và gửi quà thăm nuôi ba như lệ thường. Năm tôi mười hai tuổi, bà nội gói ghém thực phẩm, thuốc men dẫn tôi ra thăm ba. Nghe nói sẽ được đi tàu lửa, xe hơi, tôi mừng rơn. Khổ thay, tấm thân bé nhỏ bị nhồi nhét vào chỗ hôi hám đến ngạt thở, tôi mệt xỉu nhiều lần làm cho bà nội đã vất vả lo âu, còn bị tài xế, lơ xe hất hủi, nạt nộ nhiều phen. May, bà con đi thăm nuôi đều tốt bụng thương tình giúp đỡ, bà cháu tôi cũng lê thân đến trại ''Cổng Trời'' thăm ba.

       Đứng trước con người xanh xao, da bọc xương, bà tôi nghẹn ngào nuốt nước mắt! Ba tôi loang loáng giọt sương, bậm môi chụp lấy bà cháu tôi ôm cứng, không nói lời nào. Bà tôi gở tay ba, nắn bóp đôi tay sần sùi kể lướt qua chuyện nhà và việc mẹ tôi buôn bán vất vả lo cho gia đình. Bà nói không ngừng như sợ hết giờ thấy mặt con. Tuyệt nhiên bà không hề nhắc đến chi tiết mẹ biến mất. Còn ba, tai nghe lời bà, nhưng mắt chăm chắm vào tôi, ba siết chặt người tôi, hôn hít tôi như tìm hơi thở, như thể sợ tôi tan biến đi. Cảm giác ấm áp trìu mến chợt đến, tôi cũng ôm lấy cổ ba tôi không rời, chẳng biết nói gì...

       Ra về, tôi mang theo hình ảnh ba tôi và đông đảo các bác, các chú, gần gũi thân nhân thăm nuôi ngày đó luôn. Ở đó, không hề nghe thấy một tiếng reo vui. Tất cả hầu như im ắng, lắng động. Những lời nói khẽ khàng, những cử chỉ trìu mến, ánh mắt nhìn thiết tha khuấy sâu tận tâm não...Tất cả đều manh động mà vô cùng sinh động, rung cảm lòng tôi như tiếng chuông ngân dài bất tận. Tôi bắt đầu hiểu ra chút đỉnh số phận khốn đốn của các gia đình có người cha đi tù cải tạo xa vời. Tôi thường cầu nguyện cho ba sớm có ngày về. Mãi đến năm tôi nghỉ hè lớp Tám thì ba tôi mới mãn hạn tù, đúng mười một năm. Nhìn thân hình ba tiều tụy, mất hết nhựa sống cả nhà xót xa, chạnh lòng. Mẹ không có mặt mừng ba về. Ông nội khó khăn lắm mới nói được duyên do. Không khí chùng xuống nặng nề, mọi người như nín thở. Ba điếng hồn chịu đựng. Rồi bỗng nhiên hướng mắt nhìn từng người thân thật lâu mà không nói gì cả. Cuối cùng, ánh mắt ba nồng ấm, dạt dào yêu thương đậu trong mắt tôi, xoắn lấy tim tôi. Hai cha con ôm nhau đu đưa, đu đưa. Từ ấy, nhà Nội tôi có bốn người. Ba tôi bị quản chế nên chỉ quanh quẩn ở nhà, âm thầm với công việc chăm sóc rau trái trong mảnh vườn nhỏ, thay ông bà. Cả nhà chỉ trông cậy vào màu xanh 'cây nhà lá vườn' ít ỏi. Theo thời vụ, ba tôi trồng bầu bí, rau đậu, bắp để ăn và hoa vạn thọ để bán ngày rằm, mùng một. Đúng vào mùa mưa, đất đỏ nhuộm chân ba, áo quần lấm lem chẳng khác chi bù nhìn giữ lúa. Chú tôi dạy ở trường, còn dạy kèm thêm mươi trò ở nhà, mà lương chỉ trang trải được ba tuần gạo cơm. Bà nội dè xẻn khéo lắm mới qua ngày. Điều đáng nói là ba thế hệ sống bên nhau vô cùng ấm cúng.

       Thỉnh thoảng, có vài người bạn cũ đến thăm, ba tôi dắt họ ra vườn trò chuyện, nướng bắp ăn tại chỗ. Trong số họ, bác Bảy đến thường hơn, nhưng không bao giờ ở chơi lâu. Rồi một hôm, trong mùa World cup 86 sôi nổi khắp nơi, ba bảo tôi mặc thêm đồ ấm để ba chở (xe đạp) ra phố coi tranh giải. Quán cà-phê Hồng chật ních người, lớp trong, lớp ngoài chen nhau vã mồ hôi, dán mắt vào cái TV màu 21 inch, hồi hộp theo chân các đội banh lừng danh trên thế giới quyết liệt thi đấu với nhau. Chúng tôi đang say mê, phấn khích la hét cổ động cùng mọi người, bỗng có một ông già ốm nhom chen vào, đẩy cha con tôi dạt ra, đụng nhiều người làm cho họ mất hứng, cự nự om tỏi...Ba tôi tỏ thái độ bất bình, nắm tay tôi lôi ra khỏi quán, ngay tức khắc ra về. Trên đường đi, ba dừng xe bên đường tiểu tiện thì một chiếc Honđa trờ tới, ba vất vội cái xe đạp vào lề, đẩy tôi cùng lao lên xe Honda chạy thẳng hướng Bà Rịa- Vũng Tàu.Tôi bàng hoàng chưa kịp định hồn về hành động chớp nhoáng vừa xảy ra thì người lái xe quay cổ nói khẻ: 'Một chết một còn bữa nay nghe cháu! Tuyệt đối im lặng!' Câu nói đó làm tôi nổi da gà nhớ đến số phận mẹ tôi.

       Không biết Trời Phật, Tổ tiên thương hay nghiệp duyên, phước nhà độ trì mà chiếc tàu đánh cá bé nhỏ chở trên 30 chục mạng người sống dở chết dở, sau mười ba ngày lênh đênh vô định trên biển cả rồi cũng được người nước ngoài cấp cứu đưa tới đảo Kuku. Ở đó một tuần, chúng tôi được đưa đến trại tỵ nạn Galăng, thuộc đất Indosia. Qua sàng lọc và làm thủ tục ngót ba tháng, lần lượt bạn hữu của ba tôi lên đường định cư, đoàn tụ với thân nhân. Hai tháng sau, đến lượt cha con tôi qua Mỹ. Không có thân nhân bảo lãnh, thuộc diện 'đầu trọc'nên gia đình tôi được chỉ định nơi cư trú. Chúng tôi đến thành phố Winton-Salem, bang North Carolina cuối năm 86... Nhờ vào chế độ trợ cấp của chính phủ, nơi ăn chốn ở, khám chữa bệnh mà cuộc sống cha con tôi tạm ổn. Việc cấp bách trước tiên là tôi phải dành hết thì giờ vào học tiếng Mỹ. Cũng may, bốn năm Trung học ở quê nhà và mấy tháng ở trại tỵ nạn tôi đã biết tí chút tiếng Anh. Thêm vào, rất nhiều phương tiện giúp tôi mày mò luyện nói, học viết nên tôi cũng vào được lớp mười.

       Ba tôi thi lấy bằng lái xe và xong một khóa vỡ lòng Anh ngữ đã xin được việc làm ở công ty cầu đường. Hai cha con vắng nhà cùng một 'ca', thành ra việc nhà cùng chia nhau làm. Thực tế, tôi phải vật lộn với bài vở mới mẻ nên về nhà thất thường, ba tôi lục đục làm hết. Ông nấu nướng, dọn dẹp trong ngoài tươm tất, rồi ngồi coi TV chờ tôi về. Nhiều hôm tôi về bất chợt thấy ba ngồi bất động, trầm tư xa vắng tận cõi nào, mắt dâng dấng heo mây...Tôi chắc chắn ba đang trở về thuở có mẹ con tôi, ba nhớ mẹ, nhớ ông bà, nhớ quê hương. Tôi ngùi ngùi thương cảm tình cha. Nơi cha ăm ắp tình mẹ dành cho tôi, thành ra, trước mâm cơm 'tự biên tự diễn' đơn sơ của ba, hai cha con vừa ăn ngon lành vừa chuyện trò xởi lởi. Đây là thời gian bên nhau kéo dài lâu nhất trong ngày. Ba hỏi thăm việc học của tôi, nghe tôi tả cách trò học, thầy giảng dạy và đối xử rất dân chủ với nhau trong nhà trường Mỹ quốc...Ba tôi bao giờ cũng khuyên tôi nên khiêm tốn học hỏi, lắng nghe, suy nghĩ để hiểu cặn kẽ từng bài học; giữ thái độ kính thầy, nhường bạn, hoà nhập vào lớp học nhưng không nên học thói 'lười biếng, ỷ lại, ta đây'.

       Ba nhấn mạnh rằng người Việt tha hương phải giữ dân tộc tính, phải nhớ cội nguồn; rằng tôi là ý sống của ba, là niềm vinh dự của dòng tộc, hãy nhớ lấy. Ba kể thời trai trẻ phục vụ quốc gia tự do, bảo vệ an bình cho đất nước của thế hệ ba; về nguyên do mất nước năm 75, về thực chất chế độ độc tài cộng sản; về sự trả thù tàn bạo quân dân miền Nam của họ; về chuyện tù đày- cải tạo ngoài Bắc của ba; về chuyện vượt biển một mất một còn ra đi tìm tự do của đồng bào mình, trong đó có mẹ, có chúng tôi v.v..Tất cả những điều ba nói đã gợi lại trí nhớ trẻ thơ trong tôi nhiều chi tiết có thật, và tôi đã vỡ lẽ tại sao suốt chuỗi ngày lớn lên ở quê nhà không một ai nói ra. Nhiều hôm chúng tôi chỉ nhắc nhớ ông bà nội không thôi. Ông bà và chú hẳn khó khăn không ít sau chuyến vượt biên của cha con tôi. Ba thở dài não ruột. Tôi trở thành người bạn nhỏ thân thiết của Ba, nhận ở ba bao điều san sẻ chân tình với tình thương kính sâu xa.

       Thức ăn của chúng tôi không ngon cũng thành ngon vì món ăn tinh thần thỉnh thoảng từ thời quá khứ trở về như thế, cùng ý nhớ thực đơn vườn nhà mà bà nội tôi chế biến suốt mấy năm cả nước ăn độn kham khổ theo về. Thật ra, ở Mỹ, cha con tôi còn rất vụng về việc chợ búa, nấu nướng. Ngoài những bữa ăn đạm bạc chỉ rau luộc, lấy nước làm canh, thêm trứng gà chiên qua nhiều tháng. Về sau, xôm hơn mới thêm cá hộp, đậu hủ kho tương. Ba cố nhớ những món kho nướng cấp thời hồi lao động khổ sai ở trại cải tạo mà các bạn đã chia sớt....mà không sao ứng dụng để đạt được hương vị ngon lành thấm đậm như ngày đó. Vì vậy, ba quay sang học tủ các món ăn trong sách, đến bữa ăn ba đem ra trao đổi cùng tôi như để thực nghiệm lý thuyết một bước trước khi thực hành lên soong nồi. Và, như vậy độ vài ba hôm, ba tôi trổ tài một món mới, lạ miệng, ngon nhức nhối! Thỉnh thoảng, tôi bận nghiên cứu bài vở, quên khuấy việc đi chợ thì ba đổi món mì gói cũng chẳng kém phần đậm đà. Cuộc sống ấm cúng của hai cha con êm đềm trôi qua, ngày lại ngày...

       Một hôm, đang bữa ăn tối, bỗng có chuông điện thoại reng dài, ba tôi lật đật đến nghe. Ba xởi lởi chào hỏi và tiếp chuyện với bác Bảy. Câu chuyện xoay quanh việc làm. Qua đó tôi hiểu rằng bác Bảy đã thất nghiệp. Hai bạn già bàn chuyện khá lâu, ba tôi giới thiệu số công việc không cần chuyên môn, chia sẻ mối lo cùng bác. Khi ngồi lại bàn ăn, cha tôi chậm rãi nói:

       - Thật ít có người tốt như Bác Bảy. Không có bác, cha con mình không có ngày hôm nay. Phải chi mình ở gần gia đình bác, khi khó khăn đỡ đần cho nhau...Ba tôi thường nhắc chuyện bác Bảy cưu mang chúng tôi vượt biên, lòng dặn lòng, đừng bao giờ quên ơn sâu tái sinh của bác! Công việc của ba rất đơn giản, theo ba kể: không cần chuyên môn. Hôm nào ba cũng dậy sớm lái xe đến sở làm uống cà phê, chờ xe đưa ra công trường trong thành phố. Trên xa lộ, trên đường phố, nơi nào có đặt những thùng tô-nô hoặc những ống hình thoi màu cam thì đó là công trường làm đường mới hay sửa chữa lòng đường hư hại, là nơi đó có đơn vị ba tôi. Nhiều hôm, xe đang chạy băng băng bỗng có dấu hiệu chặn lại, dồn lane vì công trường cần sửa chửa. Xe phải nhích từng tí như rùa bò, bực mình hết sức. Và, chính lúc đó, tôi sực nhớ đến công việc của ba tôi. Giờ này, ở quãng đường nào đó, ba tôi cũng đang làm việc này. Dưới trời nắng chang chang, hay mưa sầm sập, những công nhân khoác áo màu da cam vẫn phải làm nhiệm vụ dọn đường, chắp vá những ổ chó, ổ voi cho xe cộ an toàn lăn bánh, tránh tai nạn đáng tiếc xảy ra. Tuy có máy móc tối tân chủ động, nhưng người công nhân cầu đường đã góp phần không nhỏ.

       Tôi nhớ, sau trận bão tuyết năm đó, chưa bao giờ cây cành gãy đổ ngổn ngang nhiều trên đường phố đến như vậy. Đã hai ngày, tuyết vẫn còn kiên nhẫn đổ xuống, phủ dày mặt đất. Trên cao cây cành kiệt sức không chịu nổi sức nặng khối băng tuyết chất chồng, đã tức tưởi lìa thân mẹ, răng rắc ngã đè lên dây điện vốn oằn oại đỡ không nổi khối tuyết vin chặt thân, tạo thành những chiếc võng nhùng nhằng đưa đẩy vô cùng nguy hiểm. Mặt đất đóng băng trơn trợt không ai dám ra đường. Trong cái buốt giá tái tê, ảm đạm ấy, công ty cầu đường đi tiên phong thông đường. Các công ty điện, điện thoai, nước ...tích cực nối kết hệ thống dây điện, điện thoại, đưa nguồn nước ấm đến mọi nhà. Công nhân đủ màu áo, theo phần việc của mình, hiện diện khắp nơi tai trời ách đất giáng xuống! Mấy ngày liền, ba tôi trang bị thật ấm vội vã đến công trường từ mờ sáng mãi tối mịt mới về tới nhà. Mệt mỏi hiện rõ trên đôi mắt thâm quầng nhưng ba vẫn giữ nụ cười ấm áp, khoe với tôi:

        - Tạm ổn phần điện nước và cây cối. Chỉ còn việc lấp ổ chó ổ voi, sửa đường sạt lở nhiều nơi thôi...

       Ba nói vậy, nhưng trên đường đi học, tôi thấy áo màu cam vẫn miệt mài khắp nẻo đường.... Thế đấy, ba tôi quên mình, an vui với công việc để nuôi tôi ăn học cho đến ngày tôi mũ áo tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sư điện toán, an cư lạc nghiệp bên ba. Nhớ thời gian sắp ra trường, được nhiều công ty ngoài bang phỏng vấn, trả lương cao, tôi những muốn bay nhảy khỏi nơi này mà lòng mãi hổ thẹn. Chỉ một phút kiêu căng, ham muốn điều kiện vật chất khá hơn, xuýt chút nữa tôi quên người cha cô quạnh, cao niên của mình vò vỏ một thân! Tôi quyết định nhận lời làm việc ngay trong thành phố sản xuất thuốc lá Winton- Salem này, để tổ ấm của chúng tôi không manh động. Bây giờ, điều kiện sinh hoạt của hai cha con tốt hơn xưa và cách ba chăm sóc tôi vẫn không khác chi hồi trước. Điều đó làm tôi bồi hồi cảm động và vui lòng với sự lựa chọn của mình.

       Phần tôi, mỗi lần nhìn ba thui thủi đi-về, lặng lẽ như chiếc bóng, tôi thương lắm. Tôi muốn làm một cái gì đó thay đổi nếp sống đơn điệu, trầm lặng của cha tôi. Thật ra, sự quan tâm của tôi cũng chưa đúng mức và ba tôi thì không bao giờ có biểu hiện yêu cầu hay đòi hỏi nào. Tuổi trẻ chúng tôi nhạy bén và dễ hòa đồng với cuộc sống sôi động chung quanh. Công việc và bạn bè cuốn hút chúng tôi mất hơn nửa ngày. Còn người cao niên hình như họ thu mình vào góc riêng tư của mình. Nhiều hôm nghĩ đến cha, tôi quan sát bác Tùng, chuyên viên kỹ thuật cùng phòng. Bác làm việc cần mẫn, tính tình điềm đạm. Nhưng giờ giải lao hay ăn cơm trưa, bác xởi lởi chia sẻ nhiều chuyện ''thường ngày ở huyện'' bên Việt Nam cho tôi nghe. Giọng kể hóm hỉnh hấp dẫn đến nỗi làm tôi ''ghiền'' nghe bác hơn lên online.

       Hôm nào bác nghỉ, tôi như thiếu vắng một cái gì lớn lắm. Những lúc bất chợt như vậy, tôi nghĩ đến ba tôi và chợt nhận ra điều phải làm. Từ đó tôi học cách kể chuyên thời sự vào mỗi bữa ăn cùng ba tôi và lắng nghe ba so sánh thời Việt Nam Cộng Hòa cùng nỗi niềm hoài vọng của ba. Hằng ngày tôi còn in nhiều tin đặc biệt trong nước và thế giới đem về cho ba tôi đọc. Có hôm tôi bận quá, không in bài về, ba tôi như hụt hẫng trong nỗi mong chờ. Cuối cùng thì tôi rinh cái computer của tôi sang phòng ba và chỉ cho ba lên internet ...tha hồ đọc và chơi các trò chơi ở đó. Càng ngày, ba tôi càng linh hoạt hẳn lên. Ông bình luận bao nhiêu chuyện với nhiều nhận xét tinh tế, khiến tôi bất ngờ và nhận biết biết bao nhiêu kiến thức rộng mở từ ba tôi. Cũng từ đó, ba hiểu rộng thân phận sï quan tù vượt biên như ba, thà gặm nhấm nỗi nhớ thương ông bà nội tôi vào nỗi đau chung cûa đất nước đang bị kềm kẹp...chứ không thể về để vào nhà tù cả nước dưới ách cai trị cûa CS. Cũng từ đó, ba tôi mua thẻ điện thoại gọi về thăm ông bà nội hàng tuần. Ba còn mày mò viết email cùng chú trao đổi chuyện nhà rất thường. Đôi bờ cách trở nhờ phương tiện truyền thông nối liền khiến ba tôi vui tươi, phấn chấn, người trẻ hẳn ra. Tôi mừng biết mấy!

       Vào đầu tháng Năm năm 2000, bác Phú - người bạn cũ cùng khóa ngày xưa của ba, hiện cư ngụ ở Fall Church, VA gọi điện thoại thăm ba. Hai người bạn lâu ngày mới bắt được liên lạc nhau, chuyện trò sôi nổi hàng mấy giờ liền không hết chuyện. Sau đó bác Phú hẹn cuối tuần sẽ về thăm cha con tôi. Ba tôi rộn rã tươi vui chờ đón bạn: Nào chuẩn bị các món ăn đặc biệt để đãi bạn, nào sắp xếp nhà cửa-vốn đã tinh tươm - thêm tề chỉnh hơn, sáng sủa hơn... Và vui miệng kể về tình chiến hữu thời trai trẻ giữa họ cho tôi nghe. Tôi thích thú với những mẫu chuyện lãng mạn, nên thơ về ''người yêu của lính'', ''em gái hậu phương'' của bác Phú, bác Bảy... Ba tôi thoải mái kể với lòng trân trọng, nể phục vô cùng. Còn chuyện tình của ba hình như ba cố tình lờ đi. Tôi tò mò và hăm hở chờ cuộc hội ngộ sắp tới.

       Trưa thứ bảy, bác Phú đến. Ba tôi mừng rơn chạy ra sân, hai cố nhân ôm lấy nhau, cười rơi nươc mắt. Tôi cảm động bước ra trình diện bác Phú, tham gia cuộc hàn huyên ''mày-tao''thân ái giữa hai người bằng việc ân cần tiếp đãi ăn uống. Bác Phú say sưa kể những hoạt động của các quân binh chủng và tinh thần''Huynh Đệ chi binh'' hướng về quê nhà mà các chiến hữu của ba tổ chức. Bác Phú gợi:

      - Quân chủng của mình, một năm hôi ngộ một lần vậy mà năm nào cũng khuyết năm ba bạn, năm bảy năm nữa quân số âm chắc chắn đông hơn quân số dương, mày nên đến với tụi tao cho vui. Anh em gặp nhau hàn huyên tâm sự và bàn việc giúp đỡ anh em già yếu, bệnh tật kẹt lại bên nhà rất thiết thực... Mày tham gia với tụi tao nghe!

       - Cha con tao đơn chiếc đã quen... Để tao xem lại đã!

      - Thì hai cha con mày cùng đi. Tụi tao dẫn cả bầu đoàn thê tử, có gia đình càng thêm ấm cúng, bọn hậu duệ tham gia tích cực lắm!

       - Con cũng muốn đi cho biết, ba đồng ý là con đưa ba đi... Đổi không khí cho vui, gặp lại các bác, các chú... sợ ba không muốn về nhà không chừng!  Tôi cổ động ba tôi.

      - 18/6, cháu đưa ba lên nhà chú, 19/6 chúng ta cùng dự lễ kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH. Coi như đi chơi, rồi ''hạ hồi phân giải'', ok chứ đồng đội?

       - Ừ, đến đó sẽ hay...

       Điều sẽ hay đã đến rất hay! Sau ngày chia tay với bác Phú hơn một tháng thì tôi nhắc ba tôi chuẩn bị đúng hẹn lên thăm bác Phú. Nhà bác Phú gần khu thương mại Eden đã quần tụ rất đông người.

       Ba tôi ngợp đi giữa bao nhiêu tiếng gọi đàn thân thiết. Anh em đồng ngũ dành trọn vẹn một ngày cho ba. Nỗi vui mừng thấm đậm trong mắt ba, hơn cả ngày ra tù về tới nhà. Ông cười mà nước mắt dòng dòng, chơi vơi. Đồng đội ôm ba tôi thắm thiết, cười trong nước mắt. Những lời thăm hỏi dập dồn, những câu trả lời lúc sôi nổi, khi ngập ngừng; tiếng cười reo phá vỡ cảm xúc nghẹn tắt đây đó. Ba tôi hoàn toàn rơi tòm vào dây thân ái của đồng đội-binh chủng, dưới lệnh các vị niên trưởng và là huynh trưởng của nhiều khóa đàn em. Lần đầu tiên tôi chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt ‘‘Huynh Đệ chi binh’’ như thế, lòng những bồi hồi cảm xúc hân hoan, cũng cười ra nước mắt. Tôi mừng cho ba từ nay thêm mái ấm tình thâm. Tôi vui được kết thân các anh chị và các bạn thuộc thế hệ thứ hai, đang hăng hái nối dài quân số binh chủng hào hùng của cha ông.

       Sáng tinh mơ ngày 19/6 các bác, các chú quân phục chỉnh tề kéo nhau ra lễ đài đã dựng ngay trung tâm khu thương mại Eden. Ba tôi cũng đường bệ trong bộ quân phục mới toanh bác Phú tặng, bước đi vững chãi theo đoàn quân. Trước lễ đài đã tề tựu nhiều màu cờ sắc áo các quân-binh-chủng trong quân lực. Đồng hương quốc phục lễ hội đứng dày đặc bãi đậu xe. Cờ hoa và biểu ngữ rợp trời. Tôi rúng động tâm tư trước cảnh tượng quân dân hào hùng biểu lộ š chí khắng khít chung lòng hướng về ngày lễ trọng. Chắc chắn ba tôi càng bàng hoàng rúng động tâm can hơn tôi vạn bội. Nhất là phút chào Quốc Kỳ, Quân Kỳ, lễ duyệt binh... Tôi căng mắt thu nhặt từng hình ảnh, lắng tai tiếp nhận từng âm thanh và sáng lòng trong từng lời phát biểu. Diễn trạng một đội quân hùng mạnh, một đất nước phồn vinh, một dân tộc tự do, no ấm và văn minh như hiển bày ra trước mắt. Tôi sống cảnh sống một thời oanh liệt hào hùng của dân tôc tôi một phần tư thế kỷ trước và không cần che dấu dạt dào cảm xúc toàn nước mắt. Cho đến khi ba tôi ôm đầu tôi nói khẻ:

       - Ba hạnh phúc quá, con ơi!

       Cha con tôi cùng nỗi niềm thổn thức rất lâu, rất lâu.

       Nơi đây, trung tâm sinh hoạt của người Việt thủ đô và vùng phụ cận, chắc chắn hai thế hệ đã từng hòa quyện vào nhau, cùng nhìn về một hướng, dưới lá cờ tự do dân chủ màu vàng ba sọc đỏ từ lâu. Và hôm ấy lần đầu tiên chúng tôi mới hòa nhịp sống.

       Ba tôi đổi lốt từ đó. Từ đó, ba tôi công tác đắc lực trong hội quân. Dù ở xa, ông vẫn luôn có mặt trong hầu hết các sinh hoạt của binh chủng và hăng hái hoàn thành trách nhiệm được giao phó. Ông coi đó là những cống hiến sau cùng đời ông. Cuộc sống của hai cha con thêm ý nghĩa. Ý nghĩa về sự kế tục gắn bó thiêng liêng vào bước ngoặc lịch sử của đoàn quân-dân hiện diện trên xứ người và hành động về nguồn, với đồng bào, với huynh đệ chi binh thiết thực nơi quê mẹ. Một đời người cha. Ba tôi đã có một cuộc sống bình thường mà thật ý nghĩa trong tôi. Tôi hãnh diện và biết ơn cha vô cùng về bài học thân giáo của ba.