Tàn Cơn Binh Lửa - Phần 2Song Vũ(tiếp theo) Tám Cháu tôi bảo: - ”Cậu cứ nghỉ ở nhà cháu ít lâu cho khoẻ rồi từ từ tính.” Tôi nói: - ”Cậu cũng chẳng biết tính gì nữa.” Cháu gái tôi sống bằng nghề buôn quần áo cũ. Chẳng biết có thể gọi đó là một cái nghề không. Chồng nó vượt biên bằng tầu cách nay một năm tới nay vẫn chưa có tin tức gì. Người thì bảo chắc là nó đã tới đảo, người thì bảo chắc nó chết rồi. Cháu tôi đi coi bói tứ tung, mỗi thầy bà nói một kiểu khác nhau. Sau cùng nó không đi coi nữa lại thấy tin rằng chồng nó chắc còn sống nhưng vì một lý do nào đó mà chưa gửi thư cho nó biết đó thôi. Đứa con trai lớn cuả nó đi bán vé số. Còn đứa nhỏ theo mẹ ra chợ trời. Cơm nước tự lo liệu lấy thân. Từ hôm tôi về, nó để phần gạo đong sổ do phường cấp không bán nữa. Tôi mỗi ngày nấu cơm một lần vào buổi chiều chờ mẹ con nó về mới ăn. Được vài hôm, nó mang đâu về 2 cái áo cũ nhưng còn tốt, một cái quần tây dài vải kaki cho tôi mặc, bảo là nó lựa trong đám đồ cũ mua lại cho tôi dùng. Tôi nói: - ”Thôi cháu để mà bán đi, cậu đủ quần áo mặc rồi.” Thực ra, ngoài bộ đồ trận tôi mặc hôm tôi về, tôi cũng còn hai bộ đồ xi vin cũ nữa của thằng cháu rể ngay hôm sau khi tôi về nhà. Sở dĩ tôi không mặc đồ lính đi ra đường bởi vì tay tổ trưởng dân phố nhân hôm tôi về đến chơi, hắn nói: - ”Từ nay trở đi, tổ sẽ ‘quản lý’ anh. Bọn tàn dư nếu có tới rủ rê gì thì anh phải báo cho chúng tôi biết ngay. Anh có muốn đi làm ăn đâu xa phải cho tôi biết để khi phường hỏi tôi còn biết đường trả lời.” Tôi nghĩ thầm thằng cha này ăn nói huề trớt, “cách mạng” đánh thế chó nào được thằng chạy đi. Tụi nó ở bên Mỹ bên Tây, muốn qua đánh phải xin visa, hộ chiếu. Chỉ có tụi quân tử tầu, dễ dụ như tôi đây thì bọn nó mới chơi cho te tua thôi. Tuy nhiên để tránh sự dòm ngó khó chịu của hắn, tôi quyết định cất bộ đồ trận này vào balô. Một hôm đứa cháu ngoại nói với mẹ nó: - ”Má à, bộ đồ lính cuả ông còn tốt lắm. Sao má không đổi cho ông bộ đồ thường lấy bộ ấy bán có giá hơn?” Tôi không nghe rõ tiếng mẹ nó trả lời ra sao. Dạo này những người lao động chân tay ưa mặc đồ lính hơn vì nó bền, chịu mưa, chịu nắng. Buổi chiều khi mẹ nó đi bán về, tôi bảo: - ”Lão công an khu vực không thích cậu mặc đồ lính ngày xưa, cháu coi xem có bộ đồ thường nào cũ mang về cho cậu mặc, đem bộ này bán đi.” Nó bảo: - ”Để mai ra sạp, con kiếm cho cậu.” Rồi tôi nói: - ”Nghỉ nhà cũng hơn hai tuần rồi, cậu muốn đi kiếm một việc gì để làm. Cháu xem ngoài chợ có việc gì vừa sức cậu không?” Cháu tôi nói: - ”Ngoài chợ toàn là việc lăng nhăng thôi, có việc gì ra việc gì đâu.” Tôi biết trong đầu óc nó còn mang hình ảnh cuả một ông quan cậu ngày xưa. Một ông quan có lon lá, huy chương đỏ ngực đàng hoàng. Ông cậu ấy không thể hoà nhập vào đựơc với môi trường chợ chồm hổm cuả nó. Nó đang nhìn tôi bằng con ngươi cuả dĩ vãng. Lạ thật, tại sao chúng ta không thể nhìn nhau bằng những hình ảnh thực có vào lúc này đây? Dĩ vãng là cái không còn tồn tại trong lúc tôi đang sống ở giây phút này. Thời gian có hướng chuyển động cuả nó. Làm sao quay ngược được dòng vận động cuả nó? Cái tôi khờ khạo của tháng năm trước đâu có phải là cái tôi mưu mô quỷ quyệt ở lúc này? Cái tôi lanh lợi lầm lì ngày xưa đâu có phải là cái tôi mệt mỏi, hoang mang ở lúc này? Cái tôi biến thiên, thăng trầm, đổi thay từng phút giây. Tôi mãi là một hành giả trên con đường hữu hạn cuả cuộc sống để đi tìm lại bản lai diện mục bất định cuả chính mình. Cuộc tìm kiếm ấy vừa vô vọng, vừa gian khổ. Tôi muốn dừng lại ở một nơi ven đường. Tôi thực sự có thể dừng lại đựơc không? Hình như không. Con đường tôi đang đi là một dòng chẩy, là chiếc thang cuốn trải ngang. Tôi dừng lại nghiã là tôi sẽ bị cuốn lôi theo. Kể cả khi tôi chết linh hồn tôi cũng phải trôi theo. Cả thế giới tôi đang sống đây cũng đang chuyển động, trôi theo... Làm sao tôi biết được trôi về đâu? Trôi đi hướng nào? Cái giới hạn nhỏ nhoi cuả thái dương hệ tôi đang sống nào có nghiã gì với khoảng không bao la vô tận kia? Cái vô hạn rất cao và rất xanh trên đầu tôi mỗi ngày nắng đẹp. Trên ấy luôn có những cụm mây trắng bay phiêu hốt lang thang. Trước đây, tôi chẳng có bao thời gian để suy nghĩ về những điều phù phiếm này. Lúc còn ở trong tù, ngồi nhìn bạn hữu được thăm nuôi ngổn ngang đồ đạc, lương thực tiếp tế, so với tôi chẳng có lấy một lần, lòng tôi thoáng bực tức. Sự tức giận lúc đầu dần dà trở thành hờn tủi. Nỗi cô đơn buả vây trùng trùng, tôi thả mình đắm chìm trong những tưởng tượng siêu thực. Từ đấy, tôi có thói quen tìm một nơi vắng vẻ để suy tư những điều viễn vông. Một cách quên đi thực tại. Trong những giây phút viễn mơ ấy, tôi thường cảm nhận những cuộc tranh cãi gay go giữa cậu học trò dạ dầy lép kẹp với ông thầy lí trí đầy ắp những qui phạm đạo đức. Khi cuộc tranh biện đi vào ngõ bí, cũng là lúc tiếng nói cuả tiềm thức nổi lên can thiệp. Nó chê trách thái độ khinh thị vô giáo dục cuả bao tử. Nó phê bình tính bông phèng thiếu thực tiễn cuả bộ não. Nó trưng dẫn những kinh nghiệm từ quá khứ để tìm một sự thăng bằng vưà phải cho thực tại. Sau cùng, trong cuộc đấu đá bất phân thắng bại ấy, cái ngã trần tục cuả tôi thường chấp nhận một giải pháp sinh học: Ngủ để tiết kiệm năng lượng. Sau gần ba tháng ăn nhờ ở đậu nhà cháu gái, tôi đã kiếm ra cho mình một chỗ làm, một chỗ ăn và ngủ. Lại một cuộc kiếm tìm, tôi tự nhủ tôi như thế. Vựa trái cây tôi làm công nằm bên bờ một con sông. Tầu thuyền tất bật ra vô. Tôi và hai người khác có nhiệm vụ khuân vác những cần xé, dỏ đựng, bao bị... đựng đầy trái cây ương ương hoặc còn xanh lên bờ, đưa vào kho. Khi không có hàng để bốc dỡ thì dọn dẹp kho ủ, quét dọn vệ sinh quanh vựa. Công việc cũng không đến nỗi nặng. Lương lậu ngoài 2 bữa cơm chủ nuôi cũng có tí tiền dư để mua thuốc lá, uống cà phê qua ngày. Lâu lâu trúng mối, chủ thưởng thêm tí tiền phụ trội dặn dò để dành may quần áo. Ban đêm khi thì ngủ trên bờ trước cửa vựa, khi thì ngủ dưới ghe chở hàng từ lục tỉnh lên nếu hàng không bốc kịp trong ngày. Làm việc được nưả năm thì ông bà chủ, chẳng biết nghe đâu, biết tôi là một sĩ quan chế độ cũ kêu tôi lại bảo: - ”Thấy chú là người có ăn học, làm việc cực nhọc thấy tội. Chúng tôi muốn nhờ chú về nhà kèm dùm hai cháu nhỏ ở nhà.” Tôi chưa kịp có phản ứng thì bà chủ lại thêm vào: - ”Lương hướng chúng tôi sẽ trả cậu gấp đôi, cậu khỏi có lo!” Tôi bảo: - ”Cám ơn ông bà có ý muốn giúp tôi. Nhưng thực tình mà nói, chữ nghiã tôi quên hết ráo cả rồi. Bây giờ ngồi mà nhớ lại e rằng tôi không đủ can đảm. Vả chăng, công việc tôi đang làm thực sự tôi cũng thích thú. Tôi thanh thản, an nhàn, tôi chẳng ước ao gì hơn.” Tiếng ông chủ có vẻ trách móc: - ”Nói thực lòng, nhìn thấy chú bốc vác, tôi bất nhẫn lắm. Dù gì chú cũng là ngừơi có học. Nhìn một người có học làm công việc không còn liên quan gì đến bộ óc tôi thấy tội nghiệp. Chúng tôi chỉ muốn giúp cho chú thôi chứ không có ý gì khác.” Tôi im lặng. Bà chủ có vẻ giận: - ”Chúng tôi nói như thế thôi, chứ nếu chú không thích thì tùy chú!” Đêm ấy, tôi ngủ dưới ghe. Chiếc ghe bầu chở đầy trái cây từ lục tỉnh lên. Dỡ hàng suốt cả buổi chiều không xong. Tôi mang theo tô cơm chan nước cá kho, một ít dưa chua lên ghe. Khách buôn là bà già tuổi ngoài ngũ tuần, tay không lúc nào rời chiếc túi sách bằng da thuộc thô có quai đeo vai căng phồng. Tôi nghĩ thầm chắc bà mang cả tài sản theo người. Thời bây giờ đâu biết tin ai. Nhà cửa ruộng vườn đều thuộc diện quản lý cuả nhà nước. Chính quyền muốn thu là thu, muốn đuổi ai ra khỏi nhà là đuổi. Thành ra chỉ có cách bao nhiêu gia sản cồng kềnh qui ra vàng hết rồi luôn mang theo bên mình là chắc ăn. Dĩ nhiên cũng có những cái bất tiện cuả nó, chẳng hạn như luôn phải canh chừng đám lưu manh cướp bóc. Nhưng bù lại dù sao cũng còn dễ dàng hơn là phải đối phó với đám quan quyền CS sẵn sàng cướp cạn khi thấy của. Đám này nhiều đứa mặt mày sáng suả, ăn nói ngọt ngào mà trong lòng chứa toàn gươm dáo, lừa lọc. Thấy tôi bước xuống bà cười chả lả: - ”Chú em xuống nằm coi hàng phải hôn?” -“Dạ phải.” Tôi đáp. Bà chỉ ra phiá khoang ngoài. - ”Chú em ngủ ngoài kia cho mát.” Tôi chưa kịp đi thì bà đã trao cho tôi một trái soài tượng rồi bảo: - ”Chú sắt mỏng ăn chung với cơm cho ngon.” Tôi nói cám ơn bà rồi cầm trái soài bước ra ngoài. Ngồi trước mũi chiếc ghe tải trên tấm ván mòn lẳn vì dấu di chuyển xuống lên.Vừa ăn tôi vừa thả hồn mình vào dĩ vãng. Nhớ lại câu chuyện trao đổi với ông bà chủ lúc sáng nay làm tôi càng buồn. Chữ nghiã ngày càng bị coi khinh, chung quanh tôi mọi người đang sống lầm than chẳng ai bận tâm về những con chữ. Những người cầm quyền đã tách rời nghiã ra khỏi chữ. Họ viết ra ký tự, và tự do gán cho những ký tự ấy điều mà họ muốn. Nào đâu còn chữ nghĩa đàng hoàng mà dạy? Giờ phút này, vợ chồng ông bà chủ muốn tôi đi tìm lại, nhớ lại những ý nghiã của các con chữ mà tôi đã biết từ thuở thiếu thời thì quả là muốn tôi làm một điều quá sức. Trong xã hội này, con chữ là mầm mống của mọi tai họa. Biết càng nhiều nguy cơ, tai nạn càng cao. Ngày xưa bố tôi thường nói: “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.” Bây giờ thì biết càng mau chết. Kinh nghiệm trong các trại tù cho tôi điều này: “Không biết gì, còn có cơ trở ra. Biết càng nhiều, ở tù càng khẳm!” Mà thực ra thế nào là biết? Thực tại tôi đang sống đây đầy dẫy những chuyện trái khoáy. “Bộ óc” xuống đường làm nghề xe kéo, khuân vác vật vờ qua ngày. “Bắp thịt” leo lên ghế cao ngồi chỉ đạo bông phèng. Chính trị gia nói toàn những điều chính bản thân anh ta chẳng tin và biết chắc người nghe cũng vừa nghe vừa chửi thề trong bụng. Người nghe luôn tỏ vẻ chăm chú hướng về phía lãnh đạo nhưng biết rõ lãnh đạo chỉ là đám lưu manh gặp thời đang nói những điều sằng bậy. Tôi thầm nghĩ, từ trên xuống dưới, từ dân tới lãnh đạo ai cũng biết rằng mình đang bị chửi và mình cũng đang chửi ai đó. Trên chửi dưới là tàn dư phản động, là trây lười lao động. Dưới chửi trên là một lũ chó nhảy bàn độc gặp thời mạt thế ăn trên ngồi trốc. Lãnh đạo chửi nhau là xét lại, là âm mưu bè cánh. Có lẽ chính vì thế mà toàn dân thoát khỏi tội danh ‘’phúc phỉ’’ từ đời Tần Thủy Hoàng đặt ra! Ở một xã hội như thế thực sự có cái gì có thể gọi là biết được không? Chữ nghiã kêu rổng rảng trong các bài nói chuyện cuả các lãnh tụ chẳng hề mang lại chút no ấm nào cho dân. Người ta dùng chữ để mô tả toàn cảnh một thiên đường trong mộng ảo. Chữ nghiã bây giờ rẻ rúng lắm, nó không nuôi nổi chủ cuả nó. Tôi nhớ lại những ngày được chuyển ngựơc trở về miền Nam. Khi bước chân vào trại Z, người đầu tiên tôi nhận ra là thầy M, một ông thầy dậy môn sử lúc tôi còn học trung học. Thầy già đi thật nhiều, đôi kíếng trắng cũng dầy lên gấp đôi. - ”Uả, sao thầy cũng vào đây?” Tôi hỏi. - ”Thì cũng như cậu vậy thôi... Ai rồi cũng phải vào, nếu còn nghĩ rằng mình có biết một cái gì khác với những cái người cầm quyền đang biết!” Ít lâu sau, tôi mới được thầy cho hay thầy bị bắt vì dám có ý kiến đề nghị sửa đổi một vài điểm sai trong giáo trình sách giáo khoa của Bộ giáo dục. Nói xong thầy chua chát: - ”Lần này đựơc tha, mình sẽ về làm ruộng.” Thầy đựơc tha trước tôi hơn một năm. Tôi có nghe nói sau khi được về nhà nửa năm, thầy bỏ đi vượt biên. Chiếc tầu cuả thầy bị bão đánh gẫy bánh lái trôi dạt lêu bêu trên biển khơi cả tháng trời. Người trên thuyền phải ăn thịt lẫn nhau. Thầy vốn yếu đuối chắc thầy nằm trong danh sách những người bị ăn thịt cũng nên. Chín Đêm về trên mặt sông se se lạnh. Tôi kéo miếng vải đắp lên ngang mũi nằm nhìn lên trời. Trời đầy sao, bóng trăng lưỡi liềm nằm treo khuất sau một cụm mây. Tiếng nước rạt rào va đập vào mạn thuyền nghe thật buồn. Ban đêm trên sông im lắng quá. Những tiếng động đinh tai nhức óc của ban ngày chợt tắt đi, chìm xuống. Tôi thả hồn mình phiêu du trên dòng sông hướng ra biển Đông. Dạo này người ta nói nhiều đến chuyện vượt biên hơn lúc tôi mới về. Đi đâu, lúc nào, trong câu truyện trao đổi từ hai người trở lên là chém chết cũng có một tí dính dáng đến chuyện này. Một vài người bạn đồng tù với tôi có người vượt thoát, có người không. Đứa thoát viết thư về kể biết bao hiểm nguy, gian khổ trên đường đi. Rồi sau đó ít lâu là những tấm hình nhà lầu xe hơi lộng lẫy gởi về... Đứa không thoát tiếp tục bị giam tại các trại tạm giam nơi bị bắt rồi tuỳ theo tình hình được đưa trở lại các trại cải tạo trung ương. Chuyện vào tù ra khám thành chuyện nhàm, gia đình nào cũng có dính dáng tới. Tôi suy nghĩ mông lung, ý nghĩ trôi theo dòng nước chẩy. Dòng nước đang ròng, mầu đen ngòm, nước cuả hệ thống cống rãnh trong thành phố đổ vào. Tương lai vô định quá, cuộc sống như dòng nước đen chẩy miệt mài trên sông. Tôi nghĩ tới những bạn bè của mình đứa còn đứa mất, lưu linh mỗi đứa một phương. Chiến tranh bao năm đã lấy đi bao nhiêu người thân quen. Súng đạn lúc nào cũng lạnh lùng, chẳng hề phân biệt trái phải, bất lương hay đạo hạnh. Xiết cò là súng nổ, đạn bay, trúng ai nấy chịu. Cuộc sống con người trong chiến tranh đầy rẫy những bất ngờ. Có những đứa vừa ăn nhậu mới giây phút chẳng lâu trước đó, vài giờ sau đã nghe tan xác vì mìn bom, đạn pháo. Có đứa chưa kịp cầm tấm giấy phép kết hôn lên đường đã quay lơ vì một viên đạn bắn sẻ... Thần chết như thể lúc nào cũng rình rập đâu đó chờ ta sơ ý là lôi tuột ta vào hoả ngục. Sau cơn chém giết điên loạn, tưởng chừng những người sống sót có thể tìm gặp lại nhau trong nỗi hân hoan hội ngộ. Nào ngờ ngày chấm dứt cuộc chiến lại mở đầu cho một cuộc phân ly mới thê thảm và đau thương gấp vạn lần hơn. Con người nhìn nhau trong ánh mắt nghi ngờ hận thù chất ngất. Cuộc đoàn tụ cuả các gia đình người “chiến thắng” chưa kịp khô dòng lệ mừng tủi thì cuộc chia ly đầy nghiệt oan cho các gia đình người “chiến bại” lại bắt đầu. Kẻ vào tù khổ sai, người tha phương lưu lạc kiếm sống. Đất nước tan hoang điêu tàn. Dòng sông máu tạm ngưng chảy thì những dòng lũ nước mắt lại phủ ngập cả quê hương. Tôi thả hồn chơi vơi trong tiếng nước chẩy theo ra ngoài sông lớn rồi từ đó hoà với tiếng sóng ì ầm cuả biển mà trôi đi. Trời về đêm, mặt biển đen thẳm mênh mông bao la quá. Cơ hồ như biển và trời đang dính lại với nhau. Lấp lóa vài ngôi sao cô đơn ánh sáng nhạt nhòa như thể cũng đang trên đường rơi xuống biển. Ước gì biển và trời là một, tôi sẽ theo dòng nước này trôi thẳng lên trời. Ý nghĩ lạ lùng làm tôi tỉnh lại. Tôi lắng nghe tiếng nhạc thoát ra từ khoang trong ghe, nơi bà lái thương, người tài công và một thanh niên giúp việc đang ngủ. Tiếng nhạc cuả một nhạc sĩ thời tiền chiến nghe êm ả quá. Tôi thầm nhủ, mà thực ra có một thời tiền chiến không? Đất nước, quê hương tôi có ngày nào ngớt tiếng súng chém giết? Không chống ngoại xâm thì cũng chống nội thù. Lòng hờn căm làm nên sức mạnh cuả dân tộc tôi. Lòng hời căm cũng là nhược điểm của dân tộc tôi. Tình yêu xây nên các tác phẩm nghệ thuật, các công trình phúc lợi. Hận thù tạo nên bom đạn, giáo mác, những núi xương, sông máu. Từng thế hệ nối đuôi nhau cầm súng. Chiến tranh được ca tụng, ngợi khen không tiếc lời. Kẻ thù cuả tôi thậm chí còn tệ hại hơn, cả xã hội cuả họ là một trại lính nối liền hàng rào với trại tù. Họ sử dụng bạo tàn làm vũ khí để gieo rắc kinh hoàng lên mọi nơi có họ hiện diện. Nhờ sự bạo tàn, bất nhân nên họ đã thắng cuộc chiến. Bạo tàn lúc đầu là phương tiện tạm bợ. Bạo tàn giờ đây trở thành bản năng của tầng lớp lãnh đạo. Đất nước tan hoang vì bom đạn. Lòng người tan nát vì hận thù. Dân tộc tôi khổ đau triền miên chẳng biết tới bao giờ mới hết. Nhớ lại những ngày khổ sai trên đất Bắc. Lòng tôi thêm se thắt bùi ngùi. Cũng chính nhờ trong suốt thời gian nổi trôi theo các trại tù “cải tạo” này tôi đã có dịp chứng kiến biết bao cảnh thương tâm cuả dân tộc tôi. Những thôn xóm xác xơ nghèo. Những nếp sống quá bình dị, đơn giản tưởng chừng như một xã hội còn thời thuộc địa mà tôi từng được đọc trong các câu chuyện hồi tôi học tiểu học. Từ cách ăn mặc, ăn nói, suy tưởng... những người dân tôi gặp hình như chẳng ai có một chút riêng tư phân biệt nào. Nghĩ theo báo, nói theo đài là câu châm ngôn cuả họ. Chỉ duy có một điều rất giống nhau là sự dối trá. Con người sống với hai mặt, thậm chí nhiều mặt trong những trường hợp phải cư xử thích ứng với từng đối tượng giáp mặt. Trước cán bộ CS, họ hằm hè ra dáng căm thù tù “cải tạo” chúng tôi. Khi vắng cán bộ CS, họ ân cần đối xử với chúng tôi hoàn toàn ngược lại, thậm chí sẵn sàng chia sẻ khẩu phần ít ỏi của họ với chúng tôi. Lúc đầu khi nghe các cán bộ quản lí cuả trại nói “về máy bay nằm phục kích trong mây, bờ biển nước ta có rất nhiều kim cương đá quý to bằng nắm tay mà ta chưa thèm vớt lên bán, vùng đồng bằng vùng Bắc bộ chỉ cần đóng ống xuống là có săng dầu sài thả cửa...”, tôi đã ngỡ ngàng. Cho tới lúc nghe chính các cán bộ cao cấp cuả Cục trại giam mở miệng nói về Napoleon cùng thời với hai bà Trưng cuả chúng ta, về máy bay Mig của Trung quốc thả dù binh sĩ dọc theo biên giới trong cuộc xâm lăng năm 79 thì tôi lùng bùng lỗ tai không còn tin vào các giác quan cuả mình nữa. Sau đó khi có dịp gặp gỡ những người dân thường, họ cũng nói những điều tương tự. Thì ra sự ngu dốt bạo tàn là lợi khí cho các cuộc chiến tranh. Khi người lính cầm súng còn mộng mơ suy tưởng với súng đạn và mục tiêu của viên đạn nhắm tới thì sự dũng mãnh chẳng còn là bao. Chiến tranh chỉ cần những cỗ máy và những con người máy. Tất cả mọi tinh hoa, tài nguyên cuả đất nước được đổ dồn vào cuộc chém giết, tương tàn. Dân tộc bị bỏ quên bơ vơ lạc lõng trên suốt chặng đường tiến hóa chung của nhân loại. Mười Đứa cháu gái kêu tôi bằng ông cậu tới báo cho tôi biết chị hai tôi đã từ quê lên chơi. Tôi nói với ông bà chủ cho phép tôi được nghỉ buổi chiều hôm ấy. Chị em mới đó mà cũng hơn mười năm rồi mới găp lại. Vừ thấy tôi từ ngoài cửa bước vào là chị tôi đã oà lên khóc. Tôi hoàn toàn không nhận ra chị. Chị già đi nhiều quá. Già vượt cả sự tưởng tượng cuả tôi. Đôi mắt kéo mây, hàm răng móm xều, da mặt nhăn nheo, tóc mầu tiêu muối hơn nửa mái đầu. Chị còn già hơn cả mẹ tôi lúc chia tay hôm tôi đi trình diện “cải tạo”. Chị bảo: - ”Em gầy ốm quá, chị không bao bọc nổi em lúc em hoạn nạn, chị là người có lỗi với cha mẹ.” Tôi cầm tay chị nói: - ”Chị ạ, tất cả mọi người đều có lỗi. Kẻ thắng, người thua, kẻ đi, người ở... già trẻ lớn bé gì cũng đều có lỗi. Đất nước này đang là một trại tù. Trại tù chỉ giam người có lỗi thôi.” Chị tôi bảo: - ”Tháng trước chị có nhận được thư cuả cháu, báo tin cậu đã xin được việc. Anh chị tính về thăm cậu nhưng kẹt lúa đang ngậm sữa, sợ bỏ đi không chăm thì lép hết. Bây giờ gặt hái xong là chị dông về liền, còn anh phải ở lại lo giống má, đất đai cho mùa tới. Vả lại anh giờ này cứ như người mất hồn, nói trước quên sau, gặp ai cũng sợ, chẳng dám đi đến đâu.” Sau bữa cơm chiều, hai chị em kéo nhau ra ngồi ngoài hàng hiên tâm sự. Chị bảo: - ”Từ lúc cậu đi tù ít lâu, cậu ba cùng vợ con kéo nhau về Gò Công nói là hồi hương nhưng thực ra là tìm đường bỏ trốn ra nước ngoài. Hôm ra đi cậu ấy có chạy sang báo cho chị biết. Tới nay cũng chẳng có tin tức gì. Sau ngày em lên trình diện phường, chị có sang thăm vợ con em thường. Nghĩ cũng tội cho mợ ấy, chân yếu tay mềm, lại chẳng có nghề nghiệp gì nên phường đội thúc ép bắt nạt đủ điều. Sau cùng, khi cậu đi đựơc 3 năm, phường trưởng tới bảo nếu mợ ấy chịu đi vùng kinh tế mới, phường sẽ can thiệp với trên để cậu về đoàn tụ. Mợ ấy mới quyết định ra đi. Anh chị thật vô dụng, chẳng giúp đựơc ai...” Nói xong chị lại sụt sùi khóc. Tôi ngồi im lặng. Tiếng khóc nghẹn cuả chị có lẽ làm dịu đi những u uất chị đã tích chứa bấy lâu nay trong lòng. Một lúc lâu, tôi mới lên tiếng: - ”Gia đình anh Ba ra sao, chị có tin tức gì cuả ảnh không?” - “Không, có lần cháu nó xuống Gò Công hỏi thăm mà chẳng ai biết.” Chị quay qua hỏi tôi: “Thế còn em, em tính sao?” Tôi hờ hững: - ”Em chẳng tính gì cả.” Chị im lặng nhìn ra phía ngoài đường. Gần 10 giờ tối tôi mới trở về vựa trái cây bờ sông, nơi tôi làm việc. Mấy người làm công đang chụm đầu ngồi chơi bài dưới ngọn đèn dầu tù mù. Tôi đi thẳng về chiếc võng giăng giữa hai hàng cột ngoài hiên của kho ủ trái cây. Trời hôm nay ít gió, tiếng muỗi bay vo ve khó chịu. Tôi quơ chiếc quạt nan vừa phe phẩy đuổi muỗi, vừa quạt. Chiếc võng đu đưa qua lại, bồng bềnh. Tôi cố xua tan những ý nghĩ vẩn vơ để nghĩ về một điều gì đó nhưng không tài nào làm nổi. Những hình ảnh của mọi loại kỷ niệm, hiện đến chập chùng. Từ nỗi sướng vui ngày ấu thơ bên cạnh cha mẹ tôi đến những đầy ải, hành hạ trong thời gian tù đầy. Những hình ảnh ấy đan chen vào nhau lẫn lộn rối mù như một mớ bòng bong. Tôi quyết định xin nghỉ việc một thời gian với nguyên do sức khoẻ. Ông bà chủ vựa cũng tốt bụng sau khi tính lương còn cho tôi thêm ít tiền. Bà chủ nhìn tôi ái ngại. - ”Trông chú dạo này xa sút quá, thôi nghỉ dưỡng sức một thời gian đi, khi nào khoẻ trở lại đây giúp chúng tôi.” Tôi nói: - ”Cám ơn ông bà.” Sau đó ghé qua chỗ nằm thu xếp đồ đạc và vật dụng cá nhân. Quyết định nghỉ việc một thời gian đến với tôi thực bất ngờ. Có lẽ bắt nguồn từ một cảm nhận phiền muộn về những lời ve tiếng ong cuả một người bạn tù được tha ra trước tôi hơn một năm. Tôi biết anh từ hồi còn học chung tại trường Luật. Anh nổi tiếng về tài hùng biện và khuấy đảo nên anh là một trong những lãnh tụ sinh viên tranh đấu thời ấy. Sau ngày 30 tháng Tư, tôi từng thấy anh mang băng đỏ, đeo súng AK vắt chéo trước ngực đứng điều khiển chương trình sinh hoạt thanh niên. Rồi bẵng đi từ khi tôi vào tù thì không còn nghe thấy tin tức gì cuả anh ta nữa. Khi tôi từ Miền bắc trở về trại Z năm 80 gặp anh trong trại, tôi sửng sốt vô cùng. Anh bị kết án ba năm vì tội nghe lời xúi dục tham gia lực lượng phản động âm mưu lật đổ chính quyền. Nói là thân cũng không đúng nhưng vì ngủ cạnh nhau trong cùng buồng thành ra có nói chuyện với nhau thường xuyên vậy thôi. Anh được thăm nuôi tiếp tế đều đặn hàng tháng. Nghe đâu chị vợ chịu làm ăn buôn bán, mánh mung. Cứ mỗi lần từ khu thăm nuôi trở về, tối hôm đó anh lại tổ chức trà lá mời anh em trong đội để khoản đãi. Tôi thuộc loại con bà phước thành ra anh cũng thường nhường phần cơm do trại phát cho tôi ăn thêm. Thật ra mà nói vì lý lịch cuả anh mù mờ quá, lúc thì anh nói anh làm việc này, chức vụ nọ, lúc anh lại đổi qua một sơ yếu lý lịch khác hẳn khiến tôi luôn giữ kẽ với anh nhiều. Cuộc đời tù của tôi chẳng dậy dỗ gì cho tôi nhiều hơn là tăng cường cho tôi tính nghi hoặc, ngờ vực tất cả mọi người. Những trải nghiệm trong lao tù đã khiến cho mối nghi hoặc ấy cứ lớn dần lên chứ không mảy may giảm nhẹ. Có lẽ hồi trước đây anh là một người mê làm chính khách nên anh nói dữ lắm. Anh nói về đủ thứ chủ thuyết, chửi bới tất cả mọi kiểu mẫu lãnh tụ. Lúc đầu tôi cũng có ý lắng nghe, sau đó là vì lịch sự và cuối cùng thì nhàm chán nên tôi tìm cách tránh né. Có lần tôi bảo anh, tôi không thích những người mà cái gì cũng chống và ai cũng chống. Hành động chống lung tung không tạo ra thành quả gì hết. Nó là sự thể hiện tính mất quân bình trong tư duy logic. Nó là căn nguyên cuả tính kiêu ngạo hợm hĩnh bịnh hoạn. Anh có vẻ giận tôi một thời gian nhưng ít lâu sau thì anh lại nối chuyện lại. Anh nhận xét tôi có những nét đặc thù cuả một tay lính chuyên nghiệp. Có lẽ anh có ý nói tôi là một quân nhân đựơc đào luyện có bài bản và được trui rèn trong lửa đạn, một thứ lính thật sự. Tôi bảo là anh đã suy đoán lầm. Một người lính chuyên nghiệp theo tôi hiểu phải là người ít suy tư trăn trở. Họ phản xạ theo bản năng hơn là lý tính. Và quan trọng hơn hết, chiến tranh đối với họ là lẽ sống, là phương tiện để đạt tới mục đích mà họ mong muốn. Những điều ấy tôi đều thiếu. Tôi là một người lính tài tử. Anh được thả về trước tôi một năm. Không hiểu sao sau khi tôi làm cho ông bà chủ vựa này hơn tháng thì anh biết chỗ tìm đến kiếm thăm tôi. Anh cho biết anh hiện đang đứng thầu xây dựng. Anh cũng bảo khi nào cần công việc thì cứ đến gặp anh, lúc nào cũng sẵn. Trong bữa cơm bình dân phía bên kia đường chỗ tôi làm, anh mời tôi bữa ấy. Chúng tôi không trao đổi gì với nhau nhiều ngoại trừ những câu chuyện tầm phào nắng mưa thời tiết. Rồi bẵng đi đến cả gần tháng sau anh mới ghé lại. Lần này anh mời tôi đi uống cà phê. Anh bảo anh đang cần một người làm kế toán giữ sổ sách cho anh. Tôi lễ độ từ chối vì lý do tôi chẳng có tý kiến thức nào về môn này cả vả lại tính tôi lông bông tôi không thích những tính toán chi li vụn vặt. Anh tỏ vẻ thất vọng. Khi đứng dậy chia tay nhau, hai chúng tôi đi bên nhau một khoảng đường dài. Anh nói: “Đất nước đang lâm nguy, rất cần những người trong lớp tuổi như anh và tôi dấn thân làm một điều gì đó...” Tôi đi bên anh lặng lẽ không nói một lời nào. Hình như sau đó một thời gian lâu, anh lại đến tìm tôi và nói chuyện với tôi ngay chỗ tôi làm việc. Hôm đó vào buổi chiều, hết việc ăn uống tắm rửa xong tôi ra ngồi bên ven sông thả hồn mơ mộng. Anh đến ngồi cạnh tôi nói lời thăm hỏi. Anh bảo anh rất ngưỡng mộ khả năng và thích tính nết điềm đạm thận trọng cuả tôi. Sau đó anh nói: -”Hôm nay mình muốn nói thật với cậu một vài điều mà từ lâu mình không có cơ hội thuận tiện để nói.” Không kịp để tôi trả lời, anh thong thả tiếp: “Mình tin là mình không đánh giá sai về khả năng nhận xét bản tính của con người. Thú thực với cậu, mình rất cần cậu phụ giúp với mình trong việc tổ chức một lực lượng phục quốc. Phần chính trị đã có đầy đủ, duy chỉ có phần quân sự là còn thiếu người có óc tổ chức, mình thấy chỉ có cậu là hội đủ điều kiện giúp mình, mình thực sự mong muốn cậu tham gia phụ trách phần tổ chức quân sự. Cậu nghĩ thế nào?” Tôi vẫn im lặng. Không khí oi bức cuả buổi chiều ven sông chờ nước lớn vào làm tăng sự khó chịu. Anh lại cất tiếng: -”Có thể cậu cần thời gian suy nghĩ, dù sao cậu luôn nhớ vì mến cậu, mình mới nói lời mời này và vì tin tưởng nơi cậu, cho nên cậu củng đừng nói lại cho ai nghe những điều tôi đã nói lúc này.” Tôi quay lại nhìn anh rồi thong thả trả lời: - ”Tôi cám ơn anh đã coi tôi như một người khả tín để tâm sự những điều anh vừa nói. Tôi thực sự chẳng cần phải suy nghĩ gì lâu để mới có được câu trả lời. Câu trả lời cuả tôi có sẵn rồi. Cám ơn anh, tôi không giúp gì cho anh được. Tôi đã kiệt lực. Tôi cũng chẳng còn những mong muốn nào khác hơn là sự an nghỉ. Toàn bộ số năng lượng tôi có tôi đã vận hành hết trong cơn lốc xoáy vừa qua. Những kinh nghiệm cuả quá khứ luôn luôn lỗi thời với những gì đang xẩy ra, nếu nó không đựơc cập nhật với những kiến thức văn minh hiện đại. Mà tôi thì chỉ còn toàn quá khứ. Tôi luôn bị đè nặng dưới gánh nặng cuả dĩ vãng không biết đến bao giờ mới thoát ra khỏi. Trong lòng tôi chất chứa đầy hờn căm. Một thứ vũ khí lỗi thời. Súng hờn căm bắn bằng đạn thù hận. Những người Cộng Sản thiện nghệ hơn chúng ta trong kỹ thuật sử dụng loại vũ khí này. Cuộc chiến đấu mới theo tôi nghĩ là cuộc chiến đấu khởi đi từ một ý tưởng mới mẻ nào khác mới có cơ chiến thắng. Dân tộc ta lầm than điêu linh cả gần thế kỷ nay rồi. Đất nước ta xác xơ tan nát. Nếu chúng ta nhân danh vì dân tộc mà chiến đấu thì hãy nghĩ sao cho đừng đem thêm khổ đau chất chồng lên con người thực sự đang sống đây, như anh, như tôi. Chế độ nào cũng thế chẳng bao giờ kéo dài miên viễn. Những kẻ cuồng điên mê muội may thay không sống được quá giới hạn sinh vật cuả nó.” Trong lúc tôi ngưng lại tìm một ý để diễn tả tâm tư cuả mình, anh chen vào: - ”Ý anh muốn nói là chúng ta ngồi chờ chế độ này tự nó sụp đổ hay sao?” Tôi nói: - ”Chờ hay không chờ nó cũng vẫn phải vận hành theo hướng phát triển cuả nó. Sinh -trụ -họai -diệt là qui luật chung cho vạn pháp mà chẳng miễn trừ cho điều nào cả. Dân tộc này chẳng phải chỉ có mình anh hay tôi. Điều quan trọng là chúng ta phải biết khả năng của chính mình. Đừng để mình trở thành gánh nặng cho cuộc vận hành lịch sử bằng cách cứ đánh đu với những sự ngẫu hứng bất tử của các ảo thuật gia chính trị.” Anh im lặng nhìn ra hướng biển mông lung. Tôi nói tiếp: - ”Dĩ vãng là gánh nặng của mọi cuộc vận hành. Nó luôn gây nên những phiền tạp hơn là chỉ ra được những điều khôn ngoan. Cuộc sống cuả tôi hiện tại phủ đầy dĩ vãng. Tôi đang vùng vẫy mong muốn thoát ra mà chưa được. Thành ra, xin lỗi anh, tôi không giúp gì cho anh được đâu. Vả lại, như anh thấy, tôi đã vượt qua ngưỡng cửa của cái tuổi bất hoặc, nó không cho tôi cái hứng thú cần thiết để thử sức trong các cuộc phiêu lưu nữa. Tôi muốn sống một chút nào đó riêng tư cho mình. Có thể tôi ích kỷ, hoặc yếm thế hoặc bằng bất cứ một danh từ nào đó anh có thể nghĩ về tôi. Điều đó xin lỗi anh đối với tôi giờ đây thực sự chẳng quan trọng gì. Vả chăng theo thiển ý, thế hệ của anh và tôi đã làm xong vai tuồng cuả mình. Hãy nhường cho người khác, cho những thế hệ tiếp nối. Đừng bao giờ sợ dân tộc ta thiếu anh tài. Nếu thiếu, nó đã bị đồng hóa từ lâu rồi. Cái khuyết điểm lớn nhất cuả những người làm chính trị theo tôi nghĩ có lẽ là ở điểm này: họ luôn sợ rằng nếu thiếu họ sẽ không còn ai khác có thể làm được công việc họ muốn làm!” Chúng tôi lại ngồi im lặng bên nhau một hồi lâu trước khi anh đứng lên nói lời từ biệt. Ngay sáng hôm sau tôi lấy vé xe đi lên chỗ ông Năm. Lúc tôi bước vào nhà là lúc ông Năm đang luộc bắp. Thấy tôi, ông mừng rỡ: - ”Uả, lên lại rồi hả? Tôi đang nấu ít bắp đầu mùa đây này.” Tôi bỏ túi quần áo xuống đất rồi nói: - ”Tôi ra suối tắm, người dơ dáy khó chịu quá.” Ông Năm bảo: - ”Ừ, đi tắm đi, tôi chờ chú về ăn.” Bây giờ là đầu mùa mưa, con suối đã có nhiều nước. Tôi bước ra sau vườn ngồi trên phiến đá xanh thòng chân xuống dòng nước chẩy. Một cảm giác mát mẻ, dễ chịu toả lan từ đôi bàn chân lên lồng ngực, lên đầu. Cách khoảng xa vài chục thước, con suối uốn hình cong. Có tiếng cười đùa cuả phụ nữ hình như cũng đang tắm giặt ở đó. Trời tối rất nhanh. Có tiếng ông Năm kêu: - ”Này tắm xong chưa, về ăn đi chứ!” Tôi chợt nhớ ra công việc của mình. Cả hai chúng tôi ngồi ngay giữa nhà. Khoảng chục chiếc bắp luộc vớt ra đặt trong một chiếc rá rách đựơc kê trên một chiếc thau nhôm. Mùi thơm cuả món ăn lan toả khắp nhà. Ông Năm bảo: - ”Cây nhà lá vườn, vừa bẻ xong là đem luộc đấy, bảo đảm ngon hết chê.” Tôi cười: “Chắc chắn là ngon rồi.” Những chiếc bắp nếp, hột trắng ăn vưà dẻo vừa thơm. Tôi ăn đến búp thứ 3 thì no ngang. Tôi bảo: - ”Thôi no rồi, tôi đi nằm đây.” Ông Năm nói: “Ờ, ờ”. Tôi trải tấm vải nhựa vào một góc nhà, mắc chiếc mùng cá nhân nhà binh vá tứ tung, của cải duy nhất tôi còn lại sau khi bộ đồ trận tôi đưa cho cháu tôi đem bán. Ông Năm châm lửa chiếc đèn dầu treo lên vách rồi nói bâng quơ: - ”Trời ít sao quá, chắc mai lại mưa.” Tôi nằm xải chân tay nghỉ ngơi. Cơn ngủ kéo về lúc nào tôi cũng không hay. Cơn mưa kéo đến sớm hơn dự đoán cuả ông Năm. Có lẽ lúc ấy vào khoảng nửa đêm khi tôi nghe tiếng gió xạc xào chạy trên mái nhà và những giọt mưa nặng hột đầu tiên lộp độp rơi trên lá cây ngoài vườn. Giấc ngủ sâu từ chập tối khiến tôi tỉnh táo thoải mái. Tôi định ngồi dậy làm một điều gì đó, rồi không hiểu sao lại quên khuấy đi mất. Tôi chập chờn trong mộng mị nửa thức nửa ngủ. Trong tâm thức tôi hiện ra những kỷ niệm về những ngày hành quân trong vùng Đồng tháp thuở nào. Đồng tháp về mùa mưa hành quân gian khổ lắm. Bầu trời luôn luôn u ám và nặng trịch như thể chiếc mền bông ướt sũng nứơc. Những cơn mưa lúc nặng hạt, lúc lai rai rắc trên đầu lính suốt cả ngày. Dưới chân là cả khoảng đồng ruộng ngập nước, màu nước phèn trong xanh nhưng chua lợ không uống đựợc. Trên cả một vùng đồng rộng ngút mắt nhìn mênh mông là nước ấy đơn vị chúng tôi dàn quân tản mát khắp mặt ruộng lội nước òm ọp. Từng nhóm người đi co ro như những con cò con vạc kiếm mồi. Mà đúng là đi kiếm mồi thiệt. Mồi ở đây là những con người cuồng điên về một thứ chữ nghiã bậy bạ lem nhem cuả một thằng cha căng cú kiết nào đó ở mãi tận đâu đâu. Thứ mồi đầy những hiểm nguy vì sự cuồng bạo chém giết luôn rình mò và sẵn sàng nhả đạn vào đoàn cò. Những con mồi ấy đang núp lén đâu đó trong những căn xóm nằm dọc theo các con kinh đan nhau thành những ô vuông như hình bàn cờ. Đoàn quân lội nước băng đồng lâu lâu lại có người hụt hẫng vào các hố bom đạn cũ mà nước đã phủ che đi. Tiếng kêu la ơi ới, tiếng cười đùa khi có ngừơi hụt cẳng uống đầy cả bụng nước phèn. Đoàn quân dắt díu nhau đi miệt mài cho đến lúc nghe tiếng nổ chát chúa của các toán tiền thám báo cáo chạm địch. Trận đánh mở màn. Có những toán quân còn đứng kẹt giữa đồng ruộng trắng nước cũng phải cố gắng mở hoả lực mà tiến vào bià làng. Mắu thắm áo trây di loang đỏ cả mặt nước ruộng. Những vệt đạn đan chen nhau chạy sát trên mặt nước như những viên gạch nhỏ liệng lia thia hồi ấu thơ. Trò chơi chiến tranh bao giờ cũng buồn. Thậm chí trong tiếng cười cuả kẻ chiến thắng nghe còn thê lương hơn tiếng khóc cuả người chiến bại. Bởi vì kẻ chiến thắng còn phải tiếp tục cuộc truy tìm một cuộc thoát hiểm khác còn người chiến bại thì không. Mục tiêu chiếm được là một khu xóm nhỏ gồm chừng hơn chục nóc gia. Nằm thu gọn giữa ngã ba hai con kinh. Một con kinh đào bề rộng chừng hơn hai chục thước, bắt nguồn từ sông Tiền. Còn con kinh kia nằm vắt ngang chạy theo hướng bắc nam một ngả hướng về Cai Lậy, một ngả hướng về chợ Thầy Yên. Xóm nhỏ tơi tả vì bom đạn, nhà cửa cái sập cái cháy dở dang. Những xác địch chết vùi trong các hầm hố còn be bét máu và bùn. Tiểu đoàn cho lệnh dừng quân qua đêm để tản thương và tái tiếp tế. Tôi nằm sau một bụi chuối trong chiếc poncho căng vội dưới cơn mưa.Tiếng mưa đêm gõ nhịp trên poncho nghe buồn thật buồn. Quần áo ướt nhẹp nước và sình, đôi giầy vải nặng trịch như cả tảng đá đeo bên chân. Bất chấp tất cả mọi thứ khó chịu. Tôi thiếp đi trong mệt mỏi rũ liệt. Có lẽ không ai thèm ngủ hơn những ngừơi lính chiến. Người lính chẳng bao giờ có được một giấc ngủ ngon trong suốt thời chiến tranh. Mười một Buổi sáng, tôi cầm cuốc ra làm cỏ quanh vườn. Vun gốc cho mấy dây đậu rồng, vài bụi ớt. Tôi có ý định vào rừng chặt ít cây về làm dàn cho mấy gốc bầu trồng ở góc vườn. Ánh nắng đọng trên những hạt sương sớm lấp lóa. Vài con bướm trâu bay dập dờn qua lại trên những bông hoa vừa chớm nở. Buổi sáng nơi đây thật tĩnh lặng. Ông Năm ra đi từ sáng sớm. Chắc hôm nay ông đi hái cây thuốc nam về cung cấp cho mấy tiệm thuốc ngoài chợ. Cuốc được chừng nửa tiếng mồ hôi đã thấm ra ướt đầm lưng áo. Tôi dừng cuốc, cởi áo treo lên một cành cây gần đó. Lâu lắm tôi mới lại có dịp nhìn lại cơ thể mình. Một bộ xương cong queo được bọc trong bộ da mốc thếch. Chiếc thẹo dài nằm vắt ngang vùng bụng trái từ mầu nâu non ngày nào giờ đây đổi sang mầu đen nhờ nhờ lúc nào tôi cũng không hay. Chiếc thẹo là kỉ niệm cuả một trận phản phục kích trên đèo Mang cuối năm 72. Trận đánh để lại trong tôi biết bao hình ảnh hào hùng cuả bạn bè, thuộc hạ. Hôm ấy tôi đựơc lệnh dẫn 2 đại đội đi mở đường. Mỗi đại đội một bên. Quốc lộ 19 trải nhựa phẳng phiu chạy giữa những khoảng rừng chồi thấp. Xa hơn vào phía trong là những ngọn đồi thoai thoải phủ xanh cỏ tranh. Chúng tôi rời tuyến xuất phát chừng hơn cây số thì đại đội 1 đi hướng bắc cuả con đường báo cáo có nhiều dấu hiệu khả nghi. Tôi cho lệnh đại đội 2 dừng lại bố trí yểm trợ để đại đội 1 tung rộng đội hình lục soát. Đồng thời tôi cũng yêu cầu tiểu đoàn sẵn sàng tiếp ứng khi cần. Linh tính vào sinh ra tử khiến chính tôi cảm nhận một điều gì đó bất tường sẽ xẩy ra. Một cảm giác rờn rợn chạy dọc theo sống lưng. Tôi cầm máy liên lạc trực tiếp ra lệnh cho cả đơn vị sẵn sàng. Mười lăm phút nặng nề trôi qua trong im lặng, rình mò. Rồi bỗng dưng từ trên một lùm cây trên ngọn đồi nằm chếch xa con đừơng vài trăm thước, những đốm lửa loé sáng liên tiếp trước khi chúng tôi kịp nghe những tiếng nổ dòn dã như pháo tết chụp lên đội hình chúng tôi. Những đợt hoả lực hung hãn của mọi loại súng vừa chấm dứt, từng đợt biển người ngụy trang lá cây từ khoảng rừng thưa cách quốc lộ vài trăm mét lao ra hò hét man rợ: “Hàng sống, chống chết!” Chúng tôi quây tròn vào nhau thành từng cụm nhỏ. Những người bị thương nhẹ cố gắng lăn tìm một chỗ ần núp tìm cách bắn trả. Những người sống sót qua đợt hoả lực tiêu diệt cuả địch, lao thẳng vào mục tiêu hò hét xung phong. Mặt đối mặt tàn sát. Trong giờ phút sinh tử này, lì lợm chứng tỏ sự hữu hiệu cuả nó. Tôi không bao giờ quên tiếng chửi thề cuả một binh sĩ dứơi quyền: “Hàng con c.!” Chúng tôi lúc ấy như hổ dữ, sống hay chết chẳng ai nghĩ tới. Hai lớp người từ trong rừng chạy ra và từ ngoài mé lộ chạy vào, trộn vào nhau cuồng điên chém giết. Tiếng la hét, tiếng súng nhỏ, tiếng gào thét vì đau đớn, tiếng dao lê đâm, tiếng báng súng đập vào sọ người. Máu văng tung toé khắp nơi, trên thân thể người, trên mặt đất, và trên cả những thân cây có người ngồi gục vào đó mong tìm một chỗ ẩn thân. Xác người rải rác, có chỗ một, có chỗ năm ba cuộn vào nhau như thể thân thiết lắm. Ngay sau đó, 4 chiếc máy bay trực thăng võ trang rà sát ngọn cây trải lửa xuống những toán quân địch đang từ xa tới. Trận chiến xoay chiều. Cũng là lúc tôi bị đẩy bật tung về phiá sau, ngã quỵ xuống trên một thân cây nhỏ chặt đổ ngang. Một viên đạn AK chém xéo qua bụng trái ngọt như một nhát mã tấu. Máu chẩy chan hoà ướt đẫm áo trây di. Tôi thiếp đi mê man. Dạo này sao tôi mau mệt quá, tôi suy kiệt thực rồi. Ý nghĩ về một cái chết loáng thoáng ám ảnh. Nhiều khi như thế mà lại hay. Đối thủ cuả tôi tàn ác quá hoặc tôi mềm yếu quá cũng nên. Cái chết có thể lấy đi cơ may của tôi để chơi một bàn cờ mới? Lúc này đây thực sự tôi không biết. Có khi tôi muốn làm một kẻ ngoại thủy cũng nên. Đến giưã trưa, nghe tiếng ông Năm về, tôi mới bước vào nhà. Ông Năm bảo: “Trưa nay chúng mình ăn khoai lang luộc. Tôi mới ghé chợ mua 5 cân. Khoai mới rỡ, ngon hết xẩy.” Tôi nhận xét, đối với ông Năm, cái gì cũng hết xẩy, hết chê. Hình như ở nơi ông cuộc đời này thật tuyệt diệu. Ông hồn nhiên vô tư như trẻ nít. Nhìn ông tôi cũng không thể xác định đựơc tuổi thực cuả ông. Nói cho cùng tuổi tác nào có quan hệ gì đâu? Trẻ hay già là một trạng thái cuả sự cảm nhận và đáp ứng cuả cơ thể đối với cuộc sống. Tôi rõ ràng già hơn ông Năm nhiều. Ông Năm trẻ hơn tôi. Ý nghĩ ngộ nghĩnh khiến tôi mỉm cười một mình. Nụ cười hiếm hoi từ ngày ra khỏi trại tới nay. Ông Năm hỏi: “Chú cười cái gì thế?” Tôi bảo: “Tôi cười tôi.” Ông Năm lại bảo: “Ngày xưa Phật tổ phải đưa bông hoa lên, ngài Ca Diếp mới cười đựơc. Bây giờ chú tự cười mà không cần tới ngoại cảnh, rõ ràng chú thành Phật rồi.” Ông Năm cười nói vui vẻ như thể từ rất lâu nay, ông đã chú ý tới tôi nhiều, muốn làm một điều gì đó cho tôi mà chờ tới mãi hôm nay hình như vẫn chưa làm đựơc. Buổi tối trong lúc tôi nằm trong mùng, ông Năm lên chõng ngồi quay mặt vào vách. Trời lắc rắc mưa. Tiếng mưa rơi lách tách trên vách lá nghe như tiếng lửa reo trên củi khô. Trong tâm trí tôi, hiện ra hình ảnh ông Năm đang ngồi trên dàn hoả nhìn tôi hoan hỉ. Lưả cháy toả sáng tạo ra một vừng hào quang rực rỡ bao bọc chung quanh ông. Ánh lửa tàn dần, sau cùng còn lại vô vàn những ánh sáng trắng. Ông Năm ngồi giưã đám ánh sáng ấy, toàn thân một màu vàng tươi. Có tiếng ông Năm hỏi: “Ngủ chưa? “ Tôi đáp: “Chưa.” “Hay là chú tập thở đi.” Tôi đáp: “Thở mà cần gì phải tập?” Ông Năm im lặng không trả lời. Tôi hỏi: “Tập làm sao?” “Khi nào hít vào thì tự nhủ mình đang thở vào, khi nào thở ra thì tự nhủ thầm thở ra, vậy thôi.” Tôi hỏi: “Dễ thế thôi à? Có cần ăn chay không? Ông Năm đáp: “Có chay đâu mà ăn.” Tôi nghĩ thầm: “Ừ nhỉ.” Tôi hít một hơi thở dài, tự nhủ thở vào! Bỗng dưng tôi buột miệng hỏi: “Hít vào hay thở vào?” Tiếng ông Năm: “Hít vào hay thở vào nào có quan hệ gì đâu?” Tôi tự nhủ: “Ừ nhỉ, tại sao mình cứ tự làm khó mình thế nhỉ?“ Tôi cứ hít thở như thế lặng lẽ, âm thầm. Ngoài trời mưa nặng hạt hơn. Tiếng dòng suối chẩy hình như ngày cũng ào ạt hơn. Bỗng dưng tôi thấy mình bình bồng trôi trên dòng nước ấy. Dòng nước dưới lưng tôi êm dịu lạ thường. Lạ lùng chưa, tôi nhìn thấy tôi đang đứng bên cạnh ông Năm ngay sau căn chòi tôi đang ở. Ông Năm tươi cười mà sao nét mặt tôi u phiền ủ dột đến thế. Tôi để tôi trôi như thế mãi. Dòng nước dưới lưng như một tấm nệm bông. Khi hình ảnh ông Năm và tôi đứng trên bờ khuất sau một lùm cây tôi thấy con suối hình như đang chẩy ngựơc hướng lên trời. Tôi nghe tiếng gió thổi vi vu bên tai và chốc chốc lại có những lọn mây trắng bay qua như những giải lụa. Mười hai Trong thời gian ở tù, tôi cũng đã có đôi lần nằm mơ thấy mình trôi bồng bềnh như thế. Nhất là trong khoảng thời gian tôi bị bịnh kiết lị. Lúc đó là vào khoảng cuối năm 77 đầu 78. Dịch kiết lị hoành hành trên hầu hết các trại cải tạo tù chính trị chuyển từ miền Nam ra. Không tuần nào không có người lên nằm nghỉ trên đồi. Tin tức về những người tôi quen biết hoặc các cấp chỉ huy cuả tôi lần lượt ra đi làm cho tôi buồn lòng không ít. Nhất là ngay chính bản thân mình, tôi cũng đang mang mầm bịnh. Tôi phát giác ra lần đầu đau bụng tiêu ra máu vào khoảng tháng 8 năm 77. Mỗi ngày leo lên tuột xuống chỗ tiêu tiểu hàng chục lần. Tôi khai bịnh, lên bịnh xá xin thuốc, viên y tá bộ đội cho vài viên xuyên tam liên bảo rằng thứ này tốt hơn cả trụ sinh peniciline. Ba ngày chẳng có mòi thuyên giảm, viên y tá đổi sang nước lá ổi, đọt trà tươi. Số lần đi tiêu rút xuống nhưng căn bịnh thì vẫn còn y nguyên. Tôi mất sức thấy rõ. Cả trại số bịnh nhân kiết lị ngày càng tăng. Lác đác đã có người kiệt sức được võng qua bịnh xá liên trại, nơi đó nghe đồn có bác sĩ trông nom. Số những anh em còn chịu đựng được vất vưởng tới lui trong quanh sân trại làm vệ sinh và phơi nắng. Khi mùa đông về, số bịnh nhân này thực sự kiệt lực, phần lớn đều liệt giường. Số giường bên bệnh xá liên trại cũng không còn chỗ chứa. Tin tức hàng ngày nhận được cho biết lác đác đã có những anh em ra đi. Sau đó “chết” đựơc đổi danh là “lên đồi” bởi vì những người chết được chôn ngay trên một ngọn đồi thấp nằm kề bên bịnh xá. Cho đến trước tết 77 qua 78 thì diện tích cuả ngọn đồi không còn đủ chỗ chôn tù “cải tạo”. Ban chỉ huy đoàn 776 cho lịnh các trại tự quản lý lấy số tù chết. Từ đó, tù được chôn gần ngay chỗ trại giam tù. Trời gần tết không khí càng lạnh. Cái lạnh như cắt da, xé thịt. Người tù vốn đã không còn năng lượng dự trữ giờ đây thêm cơn bịnh tật càng khốn đốn hơn. Từng đêm tôi nằm nghe tiếng gió bấc thổi ù ù qua vách lá, tiếng côn trùng ếch nhái từ những khoảng ruộng ven chân đồi vang lên mà buồn cho thân phận mình. Những lúc ấy, tôi nghĩ rằng cái chết là một lối giải thoát hợp lý. Nhất là hình hài, thân xác tôi giờ đây có khác xác chết là bao. Chết chỉ là một giấc ngủ dài không mộng mị. Cái ý tưởng sợ chết có lẽ bắt nguồn từ một khái niệm rất mơ hồ về một đời sống tiếp nối lang thang đói khát ngay sau cái chết. Ám ảnh về một bóng ma đơn độc, thất thểu sống bơ vơ nơi ven rừng vách núi, cách biệt với những người mình thương mến khiến cho người sắp chết ái ngại rụt rè. Tôi nằm trằn trọc thao thức dằn vặt giữa hai ý niệm sống và chết đó cho tới khi bình minh trở lại. Tiếng gà rừng báo thức trước nhất, rồi mới tới lũ gà nhà, ý tưởng ham sống lại tràn về. Sức khoẻ cuả tôi thực sự không còn vào những ngày cận tết. Tôi nghĩ rằng thần chết sẽ về kéo tôi đi trong một ngày nào đó không xa. Trọng lượng cơ thể tôi mất đi hơn một nửa. Muốn di chuyển giờ đây tôi phải chống gậy, lết từng bước nhỏ. Giao thừa, tôi bước chân ra khỏi lán ngủ. Giữa đêm khuya, tôi đứng trên ngọn đồi cuả trại. Gió thổi ù ù. Sao đêm lác đác vài ngôi leo lét trên vòm trời đen như mực. Nhìn xuống các bản xa, thỉnh thoảng lấp lóa một ánh đèn. Bỗng dưng nước mắt tôi lưng tròng. Tôi nhớ tới cha mẹ, vợ con, các anh, các chị, bạn bè, họ hàng. Tôi ngước đầu nhìn lên trời thầm nguyện: “Nếu nghiệp tôi còn nặng, xin trời đất hãy cho tôi khoẻ mạnh để tôi tiếp tục trả nợ đời. Nếu nghiệp duyên tôi đã dứt, xin trời đất hãy cho tôi ra đi ngay đêm nay. Tôi thực sự không chịu nổi sự đầy đọa này nữa rồi. Tôi sẽ ra đi trong lòng thanh thản, không thù hận, không trách hờn!” Tôi vái bốn phương xin khí thiêng sông núi ghi nhận lòng thành cuả tôi. Tôi trở vào lán nằm chờ đợi thiếp đi lúc nào không hay. Sau đêm cầu nguyện ấy, tôi không chết và ra giêng chừng hơn một tuần, căn bịnh cuả tôi giảm hẳn. Đến hết tháng giêng năm ấy tôi khỏi bịnh. Nghiệp dĩ cuả tôi còn nặng quá. Lúc tôi thức giấc, ông Năm đã bỏ ra ngoài vườn. Ánh nắng xuyên chếch qua hướng đầu hồi chiếu thẳng xuống mắt làm tôi không thể nào ngủ đựơc nữa. Tôi ngồi dậy dọn dẹp nơi tôi nằm. Tiếng ông Năm vọng từ ngoài vào: “Thức rồi đó hả?” Tôi lên tiếng: “Vâng. Hôm nay ông có đi đâu không?” Tôi hỏi. Tiếng ông Năm: “Chắc là ở nhà.” Tôi bước ra vườn thấy ông đang lúi húi xới đất cho mấy gốc bầu bí. Vài hạt sương long lanh còn đọng trên những chiếc lá non. Bên nách lá sợi dây bí rợ thò ra những sợi râu tua móc vào những cành cây khô tôi mới thả cách nay hai ngày. Cỏ cây vô tư thật. Chúng lớn như thổi, cứ mỗi ngày ra nhìn lại thấy một khác. Chúng cũng tranh dành nhau để tồn sinh dữ lắm. Cỏ dại mọc thật nhanh để ăn hết đất mầu cuả các loại cây ăn trái. Các loại cây dài ngày luôn cố phát triển các tán lá để phủ che ánh nắng mặt trời làm cho cỏ dại không còn đường sống. Có điều tôi vẫn nghĩ, chúng tranh đọat nhau theo bản năng sinh tồn nhưng không hành hạ nhau tinh ác như con người. Trên mặt hành tinh này, chắc chỉ có giống thông minh như loài người mới có đủ khả năng đầy đọa lẫn nhau. Nỗi sướng vui lúc nào cũng thiếu. Sự đau khổ thì luôn dư thừa. Thành ra con người phát kiến ra một loại cảm nhận kì cục, sự bất hạnh khổ đau cuả tha nhân thường làm cho mình có một chút gì hạnh phúc thích thú. Tôi bỏ ra khe suối. Cơn mưa đêm qua đã mang đến lượng nước khá lớn cho dòng suối. Dòng nước vẫn còn đục lắm, kéo theo tất cả mọi loại rác rến từ trên đầu nguồn. Mực nước lên cao hơn mọi ngày thành ra mặt suối trông rộng ra hơn. Tôi ngồi xuống trên một tảng đá lớn ngay cạnh lối lên xuống thường ngày tôi vẫn đi múc nước tưới. Mặt trời lên cao dần. Vạt nắng đầu ngày xuyên qua những nhánh cây chiếu lấp lóa trên dòng nước chảy. Tôi ngồi im, lặng ngắm con chim sâu chuyền qua chuyền về giữa những bông hoa dại còn ngậm sương. Không gian tĩnh mịch u trầm. Tiếng suối chẩy hoà trong mùi ngai ngái cuả rừng cây mang đến cho tôi sự dễ chịu thống khoái. Đã lâu lắm tôi không được tận hưởng những giây phút thần tiên như thế này. Từ phía đầu nguồn trôi đến một nhánh cây khô lớn. Nhánh cây chao qua chao lại theo dòng. Bỗng khi ngang chỗ tôi ngồi nhánh cây tấp vào một cây con mọc sát ven suối giờ đây đang bị nhận chìm xuống nước hơn phân nửa. Nhánh cây khô lắc qua lại như cố gắng rút ra khỏi chỗ mắc míu trong vô vọng vì dòng nước xoáy từ khúc suối chẩy cong giữ nó đứng nguyên một chỗ. Bất giác tôi nghĩ tới thân phận mình. Tôi giống như cành cây khô ấy, trên dòng suối đời. Giờ đây tôi thực sự muốn dừng lại, như nhánh cây kia khi đựơc kéo lên bờ. Một con chuồn chuồn mầu hồng nhạt bay lòng vòng hai bên bờ suối bỗng dưng đáp xuống một chiếc lá của thân cây ngập nước. Cùng lúc nhánh cây khô, nương dòng nước chẩy, bứt ra khỏi chỗ cũ, chao đi một vòng rồi trôi xuôi. Con chuồn chuồn giật mình bốc thẳng lên cao nhìn theo ngỡ ngàng. Tôi cũng ngỡ ngàng nhìn theo...
|