1. Nguyên Nhân Thành Lập Binh Chủng Biệt Động Quân:
Trước khi bản “Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự” được ký kết đêm
20/7/1954 ở Geneva, Thụy Sĩ, cộng sản Bắc Việt đã có kế hoạch
xâm chiếm phần còn lại dưới vỹ tuyến 17 của nước Việt Nam.
Sau khi bản “Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự” được thực thi,
trong đó có ấn định các bên được “tự do di chuyển” trong vòng
300 ngày (dân sự và quân sự), thì cộng sản chỉ rút quân về miền
Bắc chừng 100,000 người, họ mang theo khoảng 45,000 các loại vũ
khí đã hư hỏng hoặc quá cũ. Cộng sản đã bí mật để lại khắp miền
Nam–Việt Nam gần 1,000 địa điểm chôn giấu khoảng 15,000 vũ khí
thuộc loại tốt. Họ cũng chỉ thị cho hơn 2,500 cán bộ chính trị (tuyên
truyền) và quân sự (khủng bố) ở tại chỗ để liên lạc và chỉ huy
thành phần dân quân cơ sở khoảng 20,000 người (sau này thành du
kích), đã hoạt động từ thời kháng chiến chống Pháp. Có một chi
tiết cần lưu ý: Trong con số được ước tính khoảng 120,000 người
tham gia vào Việt Minh ở miền Nam–Việt Nam, chỉ có trên 2,000
người mới thực sự là đảng viên của cộng sản (nấp dưới tên đảng
Lao Động). Con số còn lại hoàn toàn không biết gì về cộng sản,
họ tham gia vào Việt Minh kháng chiến chống thực dân Pháp chỉ vì
lòng yêu nước nhưng không biết mình đã bị cộng sản lợi dụng và
lừa bịp.
Từ đầu năm 1955, thổ phỉ cộng sản (cộng phỉ) bắt đầu phát
động kế hoạch khủng bố khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, đã giết
hại 106 người trong năm này. Con số nạn nhân tiếp tục tăng lên
vào những năm kế tiếp: 1956 có 207 người; 1957 là 682 và trong
năm 1958 có 1,306 người bị cộng sản giết chết.
Trong tổng số người bị cộng phỉ ám hại có 70% là nhân viên
hành chánh cấp xã, ấp, bảo an, dân vệ, cảnh sát, v.v. phần còn
lại là thường dân vô tội. Riêng vùng châu thổ sông Cửu Long là
khu vực người bị sát hại chiếm tới 85% trong tổng số nạn nhân.
Các hoạt động khủng bố của cộng sản thường tổ chức vào ban đêm,
xảy ra ở những khu dân cư hẻo lánh và thủ đoạn mà cộng sản hành
động là rải truyền đơn hăm dọa, bắt cóc, thủ tiêu, ám sát tại
chỗ, gài thuốc nổ, giả dạng ăn cướp, v.v. Cũng từ năm 1954 tới
năm 1958, trong con số được ước tính gần 1,000 địa điểm cộng sản
chôn giấu vũ khí, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã phát giác được
375 nơi mà riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chiếm hết 300
địa điểm.
Đầu năm 1958, trước vấn nạn cộng phỉ gia tăng khủng bố, phá
hoại và giết hại dân lành khắp nơi, Tổng Thống Ngô Đình Diệm kêu
gọi “thế giới tự do” yểm trợ phương tiện để đối phó với hiểm họa
cộng sản đang lan tràn. Phía Mỹ mau chóng lên tiếng đáp ứng yêu
cầu này, nhưng họ cho rằng vấn đề khủng bố, phá hoại của cộng
phỉ là do sự chỉ đạo của cộng sản Bắc Việt, nên cần phải có một
kế hoạch lâu dài như đưa người xâm nhập, bí mật hoạt động để tạo
bất an xã hội ngay nơi xuất phát những âm mưu đó.
Ngày 24/8/1958, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng
Hòa cho thành lập Liên Đội Quan Sát Số 1 (tiền thân Lực Lượng
Đặc Biệt sau này) với sự giúp đỡ của chính phủ Mỹ. Phần lớn các
kế hoạch và hoạt động của Liên Đội Quan Sát Số 1 trong thời gian
này là: Bí mật tuyển mộ người tình nguyện, huấn luyện đặc biệt
để xâm nhập miền Bắc, v.v. Toàn bộ những kế hoạch, phương tiện,
địa điểm, thời gian xâm nhập, v.v. đều do phía Mỹ chủ động soạn
thảo. Tuy nhiên trong thực tế, những hoạt động của Liên Đội Quan
Sát Số 1 đã không giải quyết được tình trạng khủng bố của cộng
sản ở miền Nam–Việt Nam, vì đây mới thực sự là một vấn đề cấp
thiết cần phải đối phó ngay trước mắt.
Vì nguyên nhân này, từ cuối năm 1958, Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã có kế sách như sau: Chỉ thị Bộ Tổng Tham Mưu cử nhiều
toán quan sát luân phiên tới thăm viếng các nơi huấn luyện của
Liên Đội Quan Sát Số 1 tại Bà Rịa (Phước Tuy); Đồng Đế (Khánh
Hòa); Hòa Cầm và Cù lao Chàm (Quảng Nam). Sau khi các toán quan
sát trở về đã báo cáo những gì được thấy ở các nơi đã nêu trên,
từ cách huấn luyện cho tới phương pháp hoạt động. Qua những phúc
trình này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm lệnh cho Bộ Tổng Tham Mưu
nên nghiên cứu một chiến thuật chống du kích và khủng bố ở nông
thôn. Đặc biệt, các quân nhân được chọn cho chiến thuật này
không nên mặc quân phục, được trang bị nhẹ nhưng không để lộ vũ
khí, thu lượm tin tức ban ngày, đột kích mục tiêu vào ban đêm,
phân tán thành nhiều toán nhỏ nhưng lúc cần có thể tập trung
thành một đơn vị tác chiến đông quân số. Ý tưởng đó của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm đã gặp sự phản đối từ Bộ Tư Lệnh MAAG, kể cả
Bộ Quốc Phòng của Mỹ cũng không đồng ý. Phía Mỹ cho rằng Quân
Đội Việt Nam Cộng Hòa nếu có thêm lực lượng này, quân số sẽ tăng
lên hơn 150,000, là con số giới hạn mà hai bên đã thỏa thuận lúc
Mỹ cam kết sẽ viện trợ và phát triển Quân Đội Quốc Gia. Hơn nữa
Mỹ cũng không có ngân khoản nào dành cho lực lượng như vậy, nó
khác hẳn với tổ chức và chiến thuật của quân đội Mỹ. Dù gặp khó
khăn từ phía đồng minh, TT Ngô Đình Diệm vẫn nhất quyết thực
hiện. Miền Nam cần phải có một lực lượng như vậy mới thích hợp
cho việc tiêu trừ du kích và cơ sở nằm vùng của cộng phỉ. Nông
thôn rộng mênh mông, vô số các thôn làng, thị trấn thưa thớt của
miền Nam là mục tiêu cho các hoạt động phá hoại, khủng bố của
cộng sản, mà hầu hết những thảm họa đều xảy ra vào ban đêm và có
tổ chức đồng nhất.
Đây là một hoàn cảnh khác biệt trên chiến trường (vô hình) mà
các đơn vị chính quy như Bộ Binh, Nhảy Dù; Thủy Quân Lục Chiến,
v.v. khó đảm trách vì tính cách quy ước và công khai của những
đơn vị này. Từ cuối năm 1958, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam
Cộng Hòa bắt đầu xúc tiến việc nghiên cứu, tổ chức một lực lượng
thích ứng với kiểu hoạt động lén lút và bất ngờ của cộng phỉ, và
dĩ nhiên cũng rất cần sự hỗ trợ từ các đồng minh.
10/2/1959: Bộ Tổng Tham Mưu cho thành lập “Ban Nghiên
Cứu Hỗn Hợp về Phản Du Kích và Chống Phiến Loạn” (Joint
Commission’s for Studies on Counter Guerilla and Anti–Revolt)
với 4 đại diện: Việt Nam, Mỹ, Anh, Úc. Các đại diện của đồng
minh tham dự vào ban này không sốt sắng mấy, họ chỉ đến quan sát
việc huấn luyện, ghi nhận kết quả và gởi báo cáo mà thôi (xin
đọc thêm nơi bài: Đại tá Nguyễn Văn Y và Binh Chủng Biệt Động
Quân, QLVNCH).
Xin tìm hiểu thêm về BĐQ ở
đây:
2. Thành Lập Biệt Động Đội:
Ngày 1/8/1959: Bộ Tổng Tham Mưu cho giải tán
Trung Đoàn 135 Địa Phương Biệt Lập ở Long Xuyên. Ngay sau đó
quân nhân của đơn vị này được tuyển chọn đặc biệt về học vấn, lý
lịch, vóc dáng, kinh nghiệm chiến đấu, v.v. để rồi thành lập 20
Trung Đội – Hoạt Động – Đặc Biệt, gọi tắt là BIỆT ĐỘNG ĐỘI.
(Special Activity Platoon – SAP). Ngay sau khi thành lập, các
trung đội này được gởi đến Trường Hạ Sĩ Quan QĐVNCH ở Đồng Đế
Nha Trang, được huấn luyện trong 6 tuần về chiến thuật Phản Du
Kích và Chống Phiến Loạn do Bộ Tổng Tham Mưu soạn thảo. Theo kế
hoạch, sẽ có 15 trung đội được trực tiếp theo dõi bởi Ban Nghiên
Cứu Hỗn Hợp về Phản Du Kích và Chống Phiến Loạn, 5 trung đội còn
lại sẽ trực thuộc các Sư Đoàn Bộ Binh. Trường Huấn Luyện Biệt
Động Đội ở Đồng Đế trước kia là một doanh trại của Pháp, nơi đây
có Trường Huấn Luyện Biệt Kích Quân, và một đơn vị có tên “Lực
Lượng Biệt Kích Không Vận Hỗn Hợp” (Groupement de Commandos
Mixtes Aéroportés – Joint Aeroports Commando Forces). Sau khi
rời Việt Nam, phía Pháp bàn giao doanh trại này vào ngày
24/2/1956, sau đó được Bộ Tổng Tham Mưu cho đổi tên thành Trường
Huấn Luyện Thể Dục Quân Sự Đinh Tiên Hoàng. Tới tháng 6/1957,
nơi đây lại đổi tên là Trường Huấn Luyện Biệt Động Đội Đinh Tiên
Hoàng, rồi chính thức đổi thành Trường Hạ Sĩ Quan Quân Đội Việt
Nam Cộng Hòa vào tháng 11/1957.
Quân nhân của các Trung Đội Hoạt Động Đặc Biệt được phối trí
ở cấp quận và xã, không mặc quân phục, chỉ một bộ đồ bà ba đen
hoặc màu nâu, vũ khí giấu trong người. Vào ban ngày, một nửa
trung đội tỏa ra, trà trộn trong dân chúng ở những nơi như bến
đò, bến xe, chợ búa, xóm di cư, v.v. hoặc giả dạng làm người
buôn bán lưu động, thợ rừng, v.v. để xâm nhập đến các nơi hẻo
lánh. Vào buổi chiều, những tin tức có được trong ngày, sẽ tập
trung lại nhằm phân tích, kết luận để đưa ra các kế hoạch hoạt
động vào ban đêm. Số quân nhân nghỉ ngơi vào ban ngày, lúc này
sẽ âm thầm đến đột kích các địa điểm được xác nhận có cộng phỉ
ẩn nấp, hoặc sẽ phục kích ở những nơi mà tin tức cho biết cán bộ
cộng sản thường lén lút di chuyển.
Ngày 14/11/1959, sau khi đến thăm các quân
nhân Biệt Đông Đội đang thụ huấn ở Đồng Đế, cũng như xem các báo
cáo đầy khích lệ về sự hoạt động từ Biệt Động Đội của Đại tá
Nguyễn Văn Y, Tổng Thống Ngô Đình Diệm có quyết định: cho tuyển
lựa quân nhân và thành lập thêm 70 Trung Đội Hoạt Động Đặc Biệt
tại năm Quân Khu vào lúc đó.
Ngày 20/12/1959, tất cả các trung đội Biệt Động
Đội được tái tổ chức thành cấp Đại Đội. Đến tháng 1/1960, có 38
đại đội đã được thành lập trên toàn quốc, riêng vùng đồng bằng
sông Cửu Long (Quân Khu 5) có tới 20 đại đội. Về tổ chức thì mỗi
đại đội Biệt Động Đội có một Ban Chỉ Huy 11 người, trong đó có 4
sĩ quan, ba trung đội tác chiến với quân số 40 người cho mỗi
trung đội.
Ngày 16/2/1960, Bộ Tổng Tham Mưu gởi chỉ thị cho
các Quân Khu thành lập thêm các đơn vị Biệt Động Đội. Ngoài
những đại đội được tổ chức cho những Quân Khu, thì mỗi Sư Đoàn
Bộ Binh cũng thành lập một đại đội như vậy nhưng danh xưng là
Đại Đội Quyết Tử (sau này mới đổi thành Đại Đội Trinh Sát, Thám
Kích, v.v.)
Về phía Đoàn Cố Vấn Yểm Trợ Quân Sự của Mỹ
(Military Assistance Advisory Group – MAAG), lúc đầu họ đã không
chịu giúp Việt Nam Cộng Hòa có thêm lực lượng này, nhưng sau hơn
một năm chứng kiến sự thành công của những đơn vị Biệt Động Đội
và thấy được quyết tâm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, phía Mỹ bắt
đầu chấp nhận sự giúp đỡ bằng cách cho tăng cường nhiều toán
huấn luyện của Lực Lượng Đặc Biệt đến Việt Nam, và cũng dành ra
một ngân khoản để tiếp tục xúc tiến kế hoạch này.
Ngày 6/5/1960, bắt đầu thiết lập thêm hai
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Đội ở Hòa Cầm và Sông Mao để phụ
trợ với trung tâm tại Đồng Đế.
3. Thành Lập Binh Chủng Biệt Động Quân:
Ngày 1/7/1960, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa
chính thức thành lập một binh chủng mới với danh xưng
Biệt Động Quân.
Quân
nhân Biệt Động Quân mang mũ nồi (beret) màu Nâu, tượng trưng cho
màu máu thấm vào đất mẹ, huy hiệu trên Mũ Nâu là một mũi tên có
cánh gọi là Thần Tiễn, biểu tượng cho sự nhanh chóng và hữu hiệu.
Bởi từ
những ngày đầu thành lập chỉ hoạt động vào ban đêm, nên một đầu
Cọp màu Đen được chọn làm huy hiệu truyền thống cho binh chủng.
Nền màu Vàng trên huy hiệu tượng trưng cho nền Cộng Hòa, ngôi
sao Trắng là biểu tượng cho sự sáng suốt và chính nghĩa. Viền đỏ
bao quanh ngôi sao mang ý nghĩa lấy máu để bảo vệ chính nghĩa.
Thánh tổ của binh chủng: Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Lời tâm
nguyện truyền thống của binh chủng Biệt Động Quân: Vì Dân Quyết
Chiến. Riêng đầu Cọp Đen có 13 răng là do sự ngẫu nhiên lúc vẽ
mẫu huy hiệu của Đại úy (Đại tá) Nguyễn Thành Chuẩn.
Lúc mới thành lập, có tất cả 50 Đại Đội Biệt Động Quân được
tổ chức ở các Quân Khu, 18 đại đội cho các Sư Đoàn Bộ Binh và
trung đoàn biệt lập. Cùng lúc đó, hai Trung Tâm Huấn Luyện Biệt
Động Quân cũng bắt đầu hoạt động, một ở Hòa Cầm, xã Hòa Sơn,
quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (hướng Tây thành phố Đà Nẵng
khoảng 12km) và một ở Sông Mao (Chợ Lầu), xã Hải Ninh, quận Bắc
Bình, tỉnh Bình Thuận (huớng Bắc Sài Gòn chừng 275km). Tính tới
cuối năm 1960 có 75 Đại Đội Biệt Động Quân được thành lập, riêng
Quân Khu 5 thì có 55 đại đội hoạt động vì vùng đồng bằng sông
Cửu Long là nơi cộng phỉ thường xuyên khủng bố, phá hoại nhiều
hơn các quân khu khác.
Vào ngày khai sinh binh chủng, một Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân
cũng được thành lập ở thủ đô Sài Gòn với các vị: Thiếu tá Lữ
Đình Sơn, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, Đại úy Nguyễn Thành Chuẩn,
v.v. Cố vấn yểm trợ là Đại úy William Mills (Bộ Chỉ Huy Biệt
Động Quân ban đầu nằm chung trong khu vực của Bộ Tổng Tham Mưu.
Đến giữa năm 1965 mới dời bộ chỉ huy về Trại Hoàng Diệu trên
đường Tô Hiến Thành, quận 10 thủ đô Sài Gòn. Năm 1968, doanh
trại này mang tên mới Trại Đào Bá Phước, là danh tính của cố Đại
tá – Liên Đoàn Trưởng, LĐ 5 BĐQ, tử thương ngày 2/6/1968 tại mặt
trận Chợ Lớn (đợt hai) vì trực thăng Mỹ bắn lầm).
Riêng vùng châu thổ sông Cửu Long thuộc Quân Khu 5, vì có tới
55 đại đội BĐQ hoạt động ở đây nên một Bộ Chỉ Huy BĐQ cấp chiến
thuật cũng được thành lập ở Cần Thơ, do Thiếu tá Trần Văn Cường
làm Chỉ Huy Trưởng, Đại úy Nguyễn Khắc Trường làm Tham Mưu
Trưởng. Những sĩ quan BĐQ ở Quân Khu 5 sau này đều trở thành
những cấp chỉ huy nổi tiếng trong binh chủng như Đại úy Phạm Văn
Phúc, Hoàng Kim Thanh, Sơn Thương, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Văn
Đương, Nguyễn Văn Huy, Trung úy Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Thành
Nguyên, Dương Kim Văn, Đoàn Thi, Nguyễn Văn Biết, Lê Tấn Paul,
Lê Hưng Phú, v.v.
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Hòa Cầm
do Thiếu tá Chương Phát Dưỡng làm Chỉ Huy Trưởng (giữa tháng
8/1960, Thiếu tá Lê Tích Thiều, Khóa 1 BĐQ, thay thế làm Chỉ Huy
Trưởng).
Sĩ quan huấn luyện:
Đại úy Nguyễn Văn Đại (Trưởng Toán),
Đại úy Trần Văn Hai (Phó Toán),
Đại úy Võ Công Trí,
Đại úy
Nguyễn Hoành Bảo,
Đại úy Cao Quốc Điền,
Đại úy Cao Văn Chơn,
Trung úy Nguyễn
Văn Xiển,
Trung úy Nguyễn Kim Biên,
Trung úy Phạm Quang Văn,
Trung úy
Nguyễn Văn Vy,
Trung úy Hoàng Tôn Oai.
Toán cố vấn huấn luyện của Liên Đoàn 77 Lực Lượng Đặc
Biệt ở Hòa Cầm:
Trưởng Toán Thiếu tá Melbourne G. Slade, người kế nhiệm là
Thiếu tá John Warren của Liên Đoàn 1 LLĐB,
Đại úy James
W. Jones,
Đại úy Hall W. Crimmelt,
Đại úy Rudolph R. Kaiser,
Trung úy Gerald M. Wynn,
Thượng
sĩ James W. Schumacher,
Thượng sĩ Wiley W. Ray,
Trung sĩ Thomas J. Wood,
Trung sĩ Earl S. Flowers (y tá),
Đại úy Snyder (quân báo),
Trung sĩ Walter (tâm lý chiến).
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Sông Mao:
Đại úy Đỗ Văn Sáu Chỉ Huy Trưởng,
Đại úy Hồ Văn Phước (Trưởng Toán),
Đại úy Trần Công Liễu (Phó
Toán),
Đại úy Đào Vĩnh Thi,
Đại úy Trần Hữu Toán,
Đại úy Nguyễn Văn Ni,
Trung úy Ngô Minh Hồng,
Trung úy Quan
Minh Tống,
Trung úy Nguyễn Văn Sảo,
Trung úy Phan Văn Cẩm.
Toán cố vấn huấn luyện thuộc Liên Đoàn 77, LLĐB ở Sông Mao:
Trưởng Toán Thiếu tá Kenneth R. Beard,
Đại úy Jack Spital,
Đại úy Reynold E. Price,
Trung úy
Freddie H. Boyd,
Thượng sĩ Kenneth R. Chadwick (vũ khí),
Trung sĩ George D. Roraback,
Trung sĩ Wylie H. Newton,
Trung sĩ Earl M. Peckham,
Trung sĩ Charles W. Allen,
Đại úy Fuselier (quân báo),
Trung úy Perez (tâm lý chiến).
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Đồng Đế:
Thiếu tá Đặng Văn Sơn làm Chỉ Huy Trưởng.
Cố vấn
huấn luyện:
Đại úy Raymond L. Call Trưởng Toán,
Đại úy Jamie R. Hendrix Phó Toán,
Đại úy George E. Carr,
Trung úy Ronald K. Summers,
Thượng sĩ Jacques A. Standing,
Thượng sĩ Gregory A. Matteo (y tá),
Thượng sĩ Howard Kristofferson,
Trung sĩ Virgil Murphy (công
binh),
Trung sĩ Robert G. Grisham,
Thiếu tá Marcott (quân
báo),
Đại úy McConnanghey (tâm lý chiến).
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Trung Hòa:
Đại úy Trần Đình Nại làm Chỉ Huy Trưởng,
Sĩ quan
huấn luyện:
Đại úy Phạm Văn Phúc (Trưởng Toán),
Đại úy Hoàng Kim Thanh (Phó Toán),
Đại úy Nguyễn Văn Đương,
Trung úy Dương Kim Vân,
Trung úy Lê Hưng Phú,
Trung úy Nguyễn Thành Nguyên.
Trưởng Toán cố vấn huấn luyện ở Trung Hòa:
Thiếu tá
Thomas Henderson (?).
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Trung Hòa đặt tại xã
Trung Lập, quận Củ Chi, tỉnh Bình Dương, hướng Tây Bắc Sài Gòn
khoảng. Đầu tháng 2 năm 1968, Trung tá Trần Đình Nại bị tử
thương do VC phục kích ở Củ Chi. Người kế nhiệm ông trong chức
vụ này là Thiếu tá Trương Văn Oành. Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ ở
Trung Hòa đến tháng 12/1968 thì chính thức ngưng hoạt động. Kể
từ đây những Tiểu Đoàn BĐQ ở Quân Khu III và QK IV khi học bổ
túc đều phải ra trung tâm chính ở Dục Mỹ.
Hầu hết các sĩ quan Việt Nam đã nêu trên đều tốt nghiệp các
khóa về BĐQ ở Trường Ranger tại Fort Benning, tiểu bang Georgia–Hoa
Kỳ trong các năm 1958, 1959 và 1960.
Các toán cố vấn
huấn luyện thuộc Liên Đoàn 77, LLĐB:
Chỉ Huy Trưởng: Trung tá William Ewald,
Chỉ Huy Phó: Đại úy Elmer E. Monger.
Bộ Chỉ Huy và Kiểm Soát đặt ở Nha Trang. Những toán cố vấn
Huấn Luyện Lưu Động (Mobile Training Team–MTT) ở Thất Sơn, Cần
Thơ, Mỹ Tho, v.v. của Liên Đoàn 1, LLĐB do Đại tá Lewis Millet
chỉ huy tổng quát, Bộ Chỉ Huy đặt tại Sài Gòn.
Khóa 1 BĐQ
Việt Nam Cộng Hòa mãn khóa đầu tháng 8/1960 ở Hòa Cầm với sự chủ
tọa của Trung tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Vùng 1
Chiến Thuật,
Khóa 2 BĐQ Việt Nam Cộng Hòa mãn khóa giữa tháng 9/1960 tại Đồng
Đế,
Khóa 3 BĐQ Việt Nam Cộng Hòa mãn khóa đầu tháng
10/1960 ở Sông Mao,
Khóa 4 BĐQ Việt Nam Cộng Hòa mãn khóa ngày 15/11/1960 tại
Đồng Đế.
Tính tới tháng 12/1960, tất cả các sĩ quan và hạ sĩ quan
thuộc toán Cố Vấn Huấn Luyện cho Biệt Động Đội và Biệt Động Quân
đều rời khỏi Việt Nam. Phía Mỹ từ đây bắt đầu soạn thảo một
chương trình khác cho Biệt Động Quân là giai đoạn Cố Vấn Yểm Trợ
(tác chiến).
4. Thành Lập Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân
Ngày 1/8/1961, trước sự thành công trên
chiến trường của những đại đội Biệt Động Quân, nhu cầu cần có
thêm nhiều đại đội như vậy ở các quân khu, một Trung Tâm Huấn
Luyện Biệt Động Quân quy mô hơn được thành lập ở Dục Mỹ vào ngày
tháng nêu trên để đáp ứng nhu cầu này. Cùng lúc đó, các trung
tâm huấn luyện BĐQ ở Hòa Cầm, Đồng Đế, Sông Mao, Thất Sơn được
giải tán để sáp nhập vào trung tâm chính ở Dục Mỹ. Riêng trung
tâm ở Trung Hòa vẫn được duy trì cho mục đích huấn luyện bổ túc
các đơn vị cấp đại đội biệt lập và tiểu đoàn sau này tại Quân
Khu III và Quân Khu IV. Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ ở Trung Hòa duy
trì đến năm 1968 thì ngưng hoạt động.
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân QLVNCH, KBC 4926, tọa lạc
cạnh Quốc Lộ 21, kế bên thị trấn Dục Mỹ thuộc xã Ninh Sim, quận
Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nằm về phía Tây Bắc thị trấn Ninh Hòa
khoảng 15km và thành phố Nha Trang khoảng hơn 40km. Trung tâm
này nằm trên độ cao khoảng 30m (98 feet) so với mặt biển, chiếm
diện tích khoảng 7 mẫu (hectare) kế bên Suối Bông của Dục Mỹ,
chưa tính hơn một mẫu đất nằm đối diện bên kia đường, nơi đặt Bộ
Chỉ Huy MACV cho Huấn Khu Dục Mỹ, Bộ Chỉ Huy Cố Vấn Biệt Động
Quân. Ngoài ra còn có một sân bay dã chiến giáp ranh BCH MACV
cũng được thiết lập, phi đạo này dài 975m (3,200 feet) dành cho
máy bay trực thăng, quan sát (L–19) và máy bay vận tải loại
C–123 và C–7. Trung tâm này thường xuyên có quân số gần 3,000
quân nhân, bao gồm hơn 500 nhân viên, cán bộ huấn luyện và hơn
2,000 khóa sinh của 9 khóa thường xuyên duy trì theo lịch trình
huấn luyện của trung tâm. Ngoài ra còn có hai Đại Đội BĐQ là
301, 302 cũng được giải tán để sáp nhập vào TTHLBĐQ ở Dục Mỹ.
Quân nhân hai đại đội nói trên có trách nhiệm canh gác, giữ an
ninh cho trung tâm hoặc cung cấp nhân sự ở các bãi tập cho Khối
Huấn Luyện.
Từ Núi Đeo xuống vừa hết dốc hướng về trung
tâm, bên phải là xạ trường rộng lớn. Ngay đầu con đường đất đi
vào xạ trường có một tấm bia đúc bằng xi–măng sơn màu nâu cao
2m, rộng 1m. Trên bia ghi những chữ màu vàng kể sơ lược về sự
hình thành Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ và thiết lập xạ trường, phía
dưới ghi danh tính các vị đã góp công sức tạo nên trung tâm từ
những ngày đầu như: Thiếu tá Vĩnh Biểu, Đại úy Trần Văn Hai, Đại
úy Trần Công Liễu, Đại úy Cao Văn Ủy, Đại úy Nguyễn Văn Đương,
v.v. Bên trái Quốc Lộ 21 đối diện xạ trường được thiết trí một
tấm bảng sắt cao 20m rộng 40m. Tấm bảng sắt khổng lồ này sơn màu
đen, được viết ba chữ lớn “LÒ LUYỆN THÉP” màu trắng, góc phải
phía trên của tấm bảng là một mũ nâu bằng sắt cũng thật lớn.
Đứng xa vài cây số cũng thấy được tấm bảng này.
Lúc
TTHLBĐQ ở Dục Mỹ mới đi vào hoạt động, nhiều sĩ quan BĐQ có kinh
nghiệm huấn luyện được thuyên chuyển về đây như: Trần Công Liễu,
Cao Văn Ủy, Nguyễn Văn Đương, Ngô Minh Hồng, Nguyễn Ngọc Giao,
Trần Bá Tuấn, Nguyễn Thành Định và Đại úy Trần Văn Hai. Vào lúc
này, khu vực của trung tâm chỉ là một doanh trại cũ nhiều cỏ
dại, trước kia là bản doanh của Sư Đoàn 15 Khinh Chiến. Các lớp
học, nơi ăn và nghỉ của khóa sinh, những văn phòng làm việc của
nhân viên, cán bộ huấn luyện, v.v. chỉ là những căn nhà lợp tôn
đã cũ hoặc các căn lều dã chiến được tạm thời dựng lên. Thời
tiết tại Dục Mỹ nói chung chỉ có hai điểm chính là, ban ngày
nóng cháy da, ban đêm lạnh thấu xương, chưa kể sương mù, mưa
phùn dai dẳng và bệnh sốt rét rất phổ biến ở vùng này. Để có
được một trung tâm huấn luyện bề thế, ngăn nắp và đẹp mắt, các
sĩ quan Việt cũng như Mỹ ngoài giờ đảm trách huấn luyện, cũng
sốt sắng cởi áo chạy ra làm việc cùng với quân nhân của Đại Đội
320 Công Binh. Dù là người trong ban chỉ huy của trung tâm,
Trưởng Khoa Rừng Núi Sình Lầy nhưng Đại úy Trần Văn Hai luôn là
người nhiệt tâm nhất trong việc thiết kế trung tâm này. Ông đã
tự học lái xe ủi đất và xông xáo làm việc khắp nơi. Chính ông đã
căng dây, đo đạc và thiết kế một sân cờ tráng nhựa rộng lớn, mỗi
cạnh dài đúng 125m. Ông chia ra từng lô đất vuông vắn, tạo nên
những con đường thẳng tắp đến mức các cố vấn Mỹ đặt ông một biệt
danh là Hai “Highway”. Sau này ông thăng cấp Thiếu tá làm Trưởng
Khối Huấn Luyện và rời trung tâm, nhưng các câu chuyện về ông
thời mới khai mở “Lò Luyện Thép” vẫn còn được ghi nhớ, được
nhiều cán bộ kể lại cho khóa sinh chúng tôi về một vị sĩ quan
công minh, tận tâm và liêm chính.
Từ ngày thành lập 1/8/1961 đến năm 1975, Trung Tâm
Huấn Luyện BĐQ–QLVNCH đã có các vị Chỉ Huy Trưởng như sau:
Thiếu tá Vĩnh Biểu (1961–1962),
Trung tá Đặng Văn Sơn (1962–1964),
Trung tá Nguyễn Văn Kiên
(1964–1966),
Trung tá Trần Công Liễu (1966–1968),
Trung tá
Nguyễn Hữu Phú (1969),
Đại tá Nguyễn Khắc Trường (1969–1972),
Đại tá Nguyễn Văn Đại (1973–1975),
Chỉ Huy Phó: Trung tá Lâm
Duy Tiên,
Trưởng Khối Huấn Luyện: Thiếu tá Huỳnh Thiên Mạng.
5. Hệ Thống Tổ Chức Của Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ
(xin xem
thêm ảnh sơ đồ đính kèm):
Bộ Chỉ Huy Trung Tâm với các Phòng 1, 2, 3, 4, 5 và 6.
Trung Tâm Hành Quân (điều phối các đại đội khóa sinh đi ứng
chiến nhiều nơi vào mỗi đêm ở Huấn Khu Dục Mỹ).
Phòng An
Ninh (ngăn ngừa nội tuyến hoặc xâm nhập, phá hoại từ cộng sản).
Đại Đội Quân Y và một bệnh xá trung cấp với 120 giường.
Ban Kiểm Soát Ẩm Thực và Y Tế (mỗi ngày xuống nhà bếp khám
mức độ vệ sinh và dinh dưỡng của các món ăn, kiểm tra thực phẩm
từ các nhà thầu tư nhân, kiểm soát mức độ sạch sẽ khu nhà tắm,
đổ rác và khu vực nhà vệ sinh, giám sát việc bắt buộc mỗi khóa
sinh phải uống thuốc chống sốt rét (Cloroquin) mỗi tuần một lần.
Ban Cố Vấn Liên Lạc Yểm Trợ (đối diện bên phải trước cổng trung
tâm).
Đại Đội Truyền Tin, nơi quản trị một đài siêu tần
số trung cấp, nơi lưu trữ khoảng 100 máy PRC–25, mỗi đêm phát ra
cho những đại đội trực chiến, sáng thu về, điều hành một tổng
đài truyền tin cho toàn hệ thống liên lạc trong trung tâm.
Đại Đội Hành Chánh, Tài Chánh (theo dõi quân số, nhận và phát
thư tín, lương bổng của nhân viên và khóa sinh).
Đại Đội
Công Vụ, nơi phân phối các tân binh chờ nhập khóa đi làm tạp
dịch những nơi có yêu cầu.
Đại Đội Quân Xa (chở huấn cụ, cơm nước đến các bãi tập, chở
các đại đội đi trực chiến mỗi đêm, chở tân binh từ phi trường
Nha Trang về Dục Mỹ, và đưa khóa sinh đã mãn khóa đến Nha Trang,
quản trị kho nhiên liệu và cơ xưởng bảo trì).
Đại Đội Ẩm Thực Vụ (quản tri một kho gạo 1,000 tấn, cùng các
kho tích trữ thực phẩm khô, điều hành một nhà máy bơm nước ngay
đầu cầu Dục Mỹ (Suối Bông) và trung tâm lọc, phân phối nước ở
rừng thông kế trung tâm truyền tin).
Đại Đội Quân Cụ (lưu trữ, bảo trì hơn 3,000 súng cá nhân và
cộng đồng, quản trị kho đạn 10,000 tấn [trước cổng Trường Pháo
Binh] cho toàn Huấn Khu Dục Mỹ).
Đại Đội Quân Nhu (yểm trợ huấn cụ và quân trang).
Đại Đội Chiến Tranh Chính Trị (Xã hội và Tâm Lý Chiến).
Đại Đội 320 Công Binh thuộc Tiểu Đoàn 3 Yểm Trợ Công Binh BĐQ
(nằm đối diện bên trái trước cổng trung tâm).
Liên Đoàn
Khóa Sinh (Tiểu Đoàn A và B là khóa sinh BĐQ, Tiểu Đoàn C là
khóa sinh Viễn Thám và Rừng Núi Sình Lầy).
Khối Huấn Luyện với các Khoa:
Khoa Vũ Tác Mìn (Vũ khí, Tác xạ, Mìn bẫy),
Khoa Chiến
Thuật,
Khoa Chiến Tranh Chính Trị,
Khoa Rừng Núi Sình Lầy, Viễn Thám,
Khoa Tổng Quát (tiểu đoàn học bổ túc, cơ bản thao diễn, lễ
nghi chào kính, thể dục, cận chiến có vũ khí và võ thuật),
Phân Đội Quân Cảnh Biệt Động Quân 305.
6. Tổ Chức Và Hoạt Động Của Các Đại Đội Khóa Sinh:
“Vào trường Biệt Động
trắng bông
Ra Lò Luyện Thép như ông tượng đồng”.
Các tân binh BĐQ từ bốn quân khu đưa về đây, trong thời gian
chờ nhập khóa phải ở tại khu vực Đại Đội Công Vụ (ngay góc hàng
rào trước cổng Trường Pháo Binh). Sáng mỗi ngày các tân binh
được chia ra đi làm tạp dịch và chưa có bảng danh số may trên
túi áo. Sau khi được nhập khóa (200 người), sẽ tự xưng mình là:
“BĐQ danh số” trước cán bộ và gọi theo cấp bậc. Sau buổi lễ nhận
cờ nhập khóa, tối hôm đó sẽ có cán bộ bên Quân Nhu tới đại đội,
lập danh sách, đo thước tấc từng người để sau này mãn khóa sẽ
được phát một bộ đồ rằn ri đúng theo kích thước của mình. Sáng
hôm sau toàn đại đội lên bệnh xá để chích mỗi người một mũi TAB
(Titanot–Anticlorler–Bacterium (nhờ mấy anh quân y xác nhận giùm)).
Khóa sinh được lãnh lương căn bản mỗi tháng nhưng chưa được lãnh
phụ cấp hành quân.
Sau khi nhập khóa, ngoài quân trang cá nhân còn được phát một
ba–lô, một dây ba chạc, hai bi–đông đựng nước, nón sắt, được
trang bị súng cá nhân và 6 băng đạn như quân nhân tác chiến (không
có mìn, lựu đạn, súng cộng đồng), ban đầu là súng Garand
(1961–1967), sau thay bằng AR–15 (1968–1970) rồi tới XM–16
(1970–1975). Đại đội khóa sinh chọn ra ba người cao lớn nhất để
mang cờ đi trước hàng quân. Lá cờ hình tam giác dài, màu nâu,
một bên mang số hiệu của khóa, một bên có ba chữ BĐQ, cờ rộng
khoảng 30 phân, dài chừng 60 phân, chung quanh có tua vàng. Mỗi
đại đội khóa sinh được chia làm bốn trung đội. Có một ban đại
diện cho đại đội, gồm hai hạ sĩ quan cán bộ của trường hướng dẫn
suốt khóa học và những khóa sinh cán bộ được đề cử (Ban quân số
dựa vào học vấn trong hồ sơ trích yếu lý lịch để chọn làm khóa
sinh cán bộ). Mỗi đại đội có một y tá, hai máy truyền tin
PRC–25, một máy để ở văn phòng đại đội và một máy mang theo đi
các bãi tập.
Khóa sinh Đại Đội Trưởng mang trước ngực một
bảng nhựa bằng ba ngón tay, màu đỏ và có hai gạch trắng nằm
ngang, khóa sinh Đại Đội Phó cũng mang một bảng như vậy nhưng
nền màu xanh dương với hai vạch trắng. Khóa sinh Trung Đội
Trưởng mang một bảng đỏ nhỏ hơn và một vạch màu trắng, khóa sinh
Trung Đội Phó cũng vậy nhưng có nền màu xanh, một vạch trắng.
Khóa sinh Kiểm Soát Kỷ Luật mang một bảng nhựa toàn màu đỏ.
Mỗi ba tuần một lần, Khối Huấn Luyện sẽ cộng số điểm được
chấm trong các bài học bởi các Huấn Luyện Viên, rồi Liên Đoàn
Khóa Sinh sẽ trao cờ đen cho đại đội nào đứng hạng chót nếu so
điểm với những đại đội khác. Đại đội nào nhận cờ đen, có nghĩa
là đi đâu cũng chạy (gọi là bị cọp rượt). Chạy xuống nhà bàn
(nhà ăn), chạy đến lớp học (trong trung tâm), chạy ra bãi tập,
chạy đi chạy về suốt ba tuần rồi chờ đợt tính điểm huấn luyện kế
tiếp. Mỗi buổi sáng khóa sinh ăn điểm tâm một ổ bánh mì (khóa
sinh gọi là “cứt cọp”), nửa chén đường cát (nhai râu cọp), một
ca sắt cà–phê đen (nước đái cọp). Bữa ăn trưa và chiều gồm có
cơm trộn vitamin bột, thức ăn thì hai món là thịt bò kho (thịt
cọp), hoặc cá mối, cá lù đù chiên, canh thì thường là bí đao
hoặc rau muống, bí đỏ hay trái su, bắp cải, v.v. nấu với tôm,
tép khô, gia vị kèm theo có nước mắm ớt (nước mắt cọp). Sau bữa
ăn mỗi người được hai trái chuối hoặc kẹo mè xửng, kẹo đậu
phộng, nước trà đá thì uống thoải mái. Mỗi ba tuần, các đại đội
thay phiên nhau đi coi văn nghệ do ban nhạc của Đại Đội Chiến
Tranh Chính Trị trình diễn trên hội trường.
Trong trung tâm có sân bóng rổ, sân tennis, sân đá banh, võ
đường, một Câu Lạc Bộ Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan, năm Câu Lạc Bộ Khóa
Sinh, hai tiệm tạp hóa (có chụp hình), một Niệm Phật Đường, một
Nhà Nguyện Tin Lành, tín đồ Thiên Chúa Giáo mỗi Chủ Nhật được xe
chở ra dự lễ ở Nhà Thờ Dục Mỹ, khóa sinh theo đạo Cao Đài thì
theo lịch ta, hai tuần một lần được đi lễ ở một thánh thất nằm
cách trung tâm khoảng 1km (ở bên tay phải về hướng Núi Đeo), nơi
đây có một cổng lớn với hàng chữ đúc trên cao: Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ. Tòa Thánh Tây Ninh, Châu Đạo Khánh Hòa. Tộc Đạo Ninh Hòa.
Thánh Thất Dục Mỹ.
Không phải tất cả các đại đội khóa sinh đều đi trực chiến mỗi
đêm, Liên Đoàn Khóa Sinh đã sắp xếp để mỗi ba tuần sẽ có một đại
đội được nghỉ đêm trong trung tâm, không đi trực chiến. Những
nơi được ấn định canh gác thường xuyên mỗi đêm là Xạ trường ở
Núi Đeo (xa nhất), Khu Mưu Sinh Thoát Hiểm và Đào Tẩu (kế bên
chỗ đi dây tử thần), căn cứ Tân Trúc gần Núi Đeo, bãi tập Đoạn
Đường Chiến Binh, bãi tập Tác Chiến Trong Thành Phố, bãi tập đổ
bộ trực thăng, kho đạn huấn khu, Bộ Chỉ Huy MACV, sân bay dã
chiến Dục Mỹ, cầu Dục Mỹ, đồn Quân Cảnh và Cảnh Sát thị trấn Dục
Mỹ, nhà máy bơm nước của BĐQ, cầu treo bắc qua Suối Bông đi sang
sân bay dã chiến, và sung sướng nhất là được đi trực chiến ở Khu
Gia Binh của BĐQ và Huấn Khu Dục Mỹ, buồn chán nhất là gác ở kho
đạn huấn khu.
Nếu trừ một đại đội ở lại trung tâm, 8 đại đội còn lại đi
trực chiến thì gần tương đương hai tiểu đoàn. Một lực lượng như
vậy tỏa ra khắp nơi ở Dục Mỹ thì làm sao cộng sản lọt vào được!
Thế nhưng, dù cộng sản không lọt vô được nhưng vẫn có người lọt
ra được. Đó là mấy con “cọp con chưa mọc răng”, vô kỷ luật, đêm
nào cũng có vài ông lén chui hàng rào ra Dục Mỹ nhậu rượu đế, có
người say tới mức lúc bò trở vô nằm gục luôn ở hàng rào. Kẻ nào
bị Quân Cảnh hoặc Kiểm Soát BĐQ tóm được ngoài phố, sẽ được đưa
về “nghỉ ngơi” trong khu Chuồng Cọp ở Liên Đoàn Khóa Sinh. Bị
bắt lần thứ hai thì sau giờ nằm Chuồng Cọp, phải xách chổi và xô
nhựa đi quét dọn quanh mấy khu nhà vệ sinh, quanh mấy câu lạc bộ,
không được mặc áo và đầu bị cạo trọc. Bị bắt lần thứ ba sẽ được
Ban Quân Số làm thủ tục đưa qua Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn làm
lính bộ binh.
Những câu lạc bộ dành cho khóa sinh chỉ bán các loại thức ăn,
nước ngọt, thuốc lá, hàng tạp hóa, chụp hình, đồ lưu niệm, bán
bia nhưng không bán rượu, và bia cũng không bán trước 5 giờ
chiều và sau 8 giờ tối. Trừ chiều Thứ Bảy và ngày Chủ Nhật bia
mới bán suốt ngày cho tới 10 giờ đêm. Vì lý do này nên mấy đệ tử
ông “Lưu Linh” mới lén ra phố tìm thứ uống mạnh đô hơn là rượu
đế. Và khi đã lên cơn ghiền thì chỉ nghĩ tới rượu mà quên mất
cái chuồng cọp. Về vấn đề duy trì kỷ luật ở “Lò Luyện Thép”,
những cán bộ kỷ luật ở đây rất nghiêm khắc, thường thẳng tay
trừng trị mấy con “cọp con” cứng đầu. Trong số đó có hai vị thật
nổi tiếng, nổi tiếng đến mức mà khóa sinh qua nhiều thời đã làm
hai câu thơ để nói đến các ông:
Rời Dục Mỹ nhớ
thượng sĩ Ba (Ban An Ninh, Liên Đoàn Khóa Sinh)
Xa công vụ nhớ ông già “Năm Phút” (hạ sĩ quan
thường vụ, Đại Đội Công Vụ. Ông này dù phạt bất cứ hình thức nào
cũng phải thi hành trong năm phút, làm lâu hơn sẽ bị phạt lại!).”
Mỗi sáng sớm, lúc sương mù còn phủ kín những bụi le, bụi lá
dang, bụi cò ke, v.v. và thị trấn Dục Mỹ còn say giấc ngủ thì
trong trung tâm đã vang dội những tiếng hô:
“...
Một, hai, ba, bốn...
ta là biệt động,
không
thích đi xe,
chỉ thích đi bộ,
không thích nằm giường,
chỉ thích gió sương.
ta là biệt động...
một, hai, ba, bốn!”
Cùng với những tiếng hô là các bản hùng ca cũng nhịp nhàng
vang lên khắp đất trời. Đó là lúc những đại đội khóa sinh BĐQ,
Viễn Thám, Rừng Núi Sình Lầy bắt đầu tiến ra bãi tập.
Trên đây chúng tôi nói sơ qua về vấn đề khóa sinh, và chỉ trình
bày từ năm 1970 về sau, là năm mà người viết bài này đã vào “Lò
Luyện Thép” học Khóa BĐQ 241, còn từ năm 1961 tới năm 1969 thì
chúng tôi hoàn toàn không biết. Tuy nhiên qua vài vị đàn anh
những khóa trước và các vị từng có một thời gian phục vụ ở Trung
Tâm Huấn Luyện BĐQ tại Dục Mỹ, chúng tôi được biết thêm vài chi
tiết cũng nên bổ xung vào đây. Từ năm 1961 tới khoảng năm 1968,
lúc đó ngân khoản dành cho trung tâm này còn dồi dào thì những
ưu tiên dành cho khóa sinh có khác biệt so với sau này. Trước
kia, khi khóa sinh nhập khóa được phát một mũ nâu, một đôi giày
“bốt đờ sô”, lúc mãn khóa được phát hai bộ đồ rằn ri may đúng
theo kích thước và các thứ cần thiết khác cho một Biệt Động Quân
đúng nghĩa. Nhưng từ năm 1970 về sau, ngân khoản dành cho trung
tâm này bị cắt giảm rất nhiều nên lúc chúng tôi vào học phải
mang giày bố, ngày ra trường chỉ được một bộ đồ rằn ri, được
phát thêm một mũ đi rừng BĐQ (có lưới che muỗi), một bình đựng
nước loại 4 lít (bi–đông con rùa, thổi phồng lên có thể dùng
vượt sông), một bộ “đồ nghề” thông nòng súng và một khoen sắt
đeo ngực dùng móc vào dây lúc xuống trực thăng, một dây nịt rằn
ri dài đúng 1m dùng cột quanh poncho lúc vượt sông. Tuy vậy
chúng tôi vẫn còn may mắn hơn những khóa đàn em sau này. Từ năm
1973 trở đi, khóa sinh không còn được phát miễn phí các loại như
vậy nữa, ai muốn sắm thêm phải tự mua ở Câu Lạc Bộ Khóa Sinh.
7. Cuộc Sống Của Nhân Viên Và Cán Bộ Ở Trung Tâm Huấn
Luyện Biêt Động Quân, KBC 4926:
Nhân sự của trung tâm, chúng tôi tạm phân thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất là những người được đào tạo chuyên nghiệp về BĐQ ở
Việt Nam, được du học về BĐQ hay tốt nghiệp từ các trường quân
sự nổi tiếng ở trong nước. Nhóm thứ hai là những người đã phục
vụ lâu năm trong binh chủng nhưng chưa tới hạn định giải ngũ,
sức khỏe suy yếu nên được chuyển về đây (số này rất ít). Những
người bị thương một lần, hay vài lần trong chiến đấu nhưng vẫn
chưa đủ thang điểm giải ngũ (số này rất ít), những người có gia
cảnh đặc biệt, chẳng hạn như cả gia đình ở hậu phương bị chết
bất ngờ vì chiến sự (số này cũng rất ít). Nói tóm lại, dù cả hai
nhóm này có khác nhau về xuất thân, về kinh nghiệm chuyên môn
hay kinh nghiệm chiến trường, nhưng cả hai nhóm đều giống nhau ở
một điểm là cuộc sống rất eo hẹp.
Không phải ai muốn về làm việc ở TTHLBĐQ cũng được. Tất cả
đều phải qua sự chọn lựa rất kỹ lưỡng và công bằng ở Bộ Chỉ Huy
BĐQ tận Sài Gòn. Được chọn trong hàng ngàn người cùng binh chủng,
cùng có những khó khăn như nhau thì không dễ gì được chấm. Lúc
được về trung tâm này, nếu còn độc thân thì ở khu dành cho nhân
viên độc thân trong trung tâm, ai có đủ tiền có thể ra ngoài Dục
Mỹ thuê phòng. Ai có gia đình, con cái thì được cấp nhà ở Khu
Gia Binh BĐQ ngoài thị trấn Dục Mỹ. Nhưng đã về đây rồi thì sẽ
bị cắt tiền phụ cấp hành quân và những trợ cấp khác cho quân
nhân tác chiến. Trong khi ngoài xã hội thì vật giá từng ngày
thêm đắt đỏ, lương bổng dù được tăng lên vẫn không đuổi theo kịp
với giá cả mỗi ngày cao dần. Có một số khá đông gia đình các
nhân viên, cán bộ ban ngày làm việc trong trung tâm hoặc là Huấn
Luyện Viên ngoài bãi tập, nhưng ban đêm phải kín đáo đi xe đạp
vào trung tâm bán đủ thứ cho khóa sinh, từ thức ăn mặn, hột vịt
lộn tới bánh kẹo hoặc thuốc lá loại “bó củi” (50 hay 100 điếu
vấn sẵn ở nhà), v.v. kể cả chấp nhận bán chịu (cho ký sổ).
Trường hợp tế nhị này Bộ Chỉ Huy TTHL đã có lệnh cấm từ lâu,
nhưng trước cuộc sống khó khăn của nhân viên nên thượng cấp đành
nhắm mắt cho qua. Không phải vì khóa sinh chẳng được ăn no, mà
tại ngán lên tới óc hai món cá chiên, bò kho phải ăn ngày hai
lần, và còn phải ăn trong nhiều ngày sắp tới. Người này giúp
người nọ, đâu có ai bị phiền!
Có những gia đình mà người vợ lính làm thợ may hằng ngày (nhận
sửa quân phục cho khóa sinh), hoặc làm cô giáo dạy con em của
quân nhân trong huấn khu (Dục Mỹ có ba trường Tiểu Học, một
trường Trung Học Văn Hóa Quân Đội). Hoặc có những người vợ lính
nhọc nhằn hơn, là buôn bán cả ngày ngoài chợ Dục Mỹ để kiếm thêm
chút tiền cho gia đình. Cũng có rất nhiều thiếu niên, thiếu nữ
con của lính, sau khi rời trường về nhà đã vội gánh trên vai
những thúng, thùng chứa nước đá, bếp dầu, cà–phê hoặc xôi, chè,
trái cây, thức ăn mặn, v.v. và rời thị trấn hướng đến các bãi
tập quân sự khắp Huấn Khu Dục Mỹ. Nơi gần nhất là 2km, nơi xa
nhất 8km. Hình như chuyện này có “nội tuyến” trong trung tâm.
Các em biết trước đại đội khóa mấy, học ở bãi nào, học nửa ngày,
cả ngày, có ngủ đêm? Biết trước hết trơn! May mà không phải
vi–xi. Là con của lính thứ thiệt. Một điểm son cần ghi nhận, dù
cuộc sống của nhân viên, cán bộ huấn luyện có nhiều khó khăn
nhưng tất cả vẫn cố gắng chu toàn trách nhiệm. Vẫn tận tụy làm
công việc quen thuộc mỗi ngày, vẫn giữ đúng tư cách nghiêm minh
của một cán bộ huấn luyện ở “Lò Luyện Thép”.
8. Chương Trình 12 Tuần Huấn Luyện Dành Cho Khóa Sinh
Biệt Động Quân (B 1 BĐQ):
Tuần thứ 1: Tập Cơ Bản Thao Diễn – Đội Hình
Diễn Binh (ở sân cờ trung tâm) và tập hát các bản nhạc hùng ca.
Tuần thứ 2: Học làm quen với các loại vũ khí
cá nhân, tháo ráp và bảo trì (ở trung tâm). Học đánh cận chiến
và võ thuật.
Tuần thứ 3: Tập bắn vũ khí cá nhân, ngủ lại
xạ trường Núi Đeo suốt một tuần.
Tuần thứ 4: Học làm quen với súng phóng lựu
M–79, đại liên M–60, đại liên 50, tháo ráp, bảo trì (ở trung tâm).
Tuần thứ 5: Tập bắn các loại vũ khí vừa nêu
trên. Thi tác xạ súng cá nhân (ngủ lại xạ trường suốt tuần).
Tuần thứ 6: Học làm quen các loại súng cộng
đồng như Bazoka, súng cối 60 và 81ly, đại bác không giật 57 và
106ly.
Tuần thứ 7: Tập bắn các loại vũ khí nêu trên,
bò hỏa lực, đổ bộ trực thăng (ngủ lại xạ trường).
Tuần thứ 8: Học các đội hình di chuyển lúc hành
quân, cấp trung đội, đại đội (ngoài bãi). Học Chiến Tranh Chính
Trị (ở trung tâm). Học về “Chiến Tranh Hóa – Vi – Quang” (Hóa
học – Vi Trùng – Quang Tuyến) học cách đeo các loại mặt nạ khác
nhau, từ khói cay (CS) đến phương cách tránh nhiễm xạ hóa học.
Tuần thứ 9: Vượt Đoạn Đường Chiến Binh, học
Tác Chiến Trong Thành Phố (ngày và đêm), đột kích và phục kích.
Tuần thứ 10: Học môn Mưu Sinh – Thoát Hiểm
và Đào Tẩu, khám phá hầm bí mật, nhận dạng và vô hiệu hóa mìn,
bẫy. Học kỹ thuật gài mìn, lựu đạn và gài bẫy, v.v. Môn này học
trong một mật khu (thu nhỏ) của Việt Cộng, kế bên Sông Cay ở Núi
Đeo (Đông–Nam Dục Mỹ 4km).
Tuần thứ 11: Học bài địa hình, lội sình, đổ
bộ, đột kích tấn công đảo bằng xuồng cao su ở Hòn Khô, Hòn Thị (Đông–Nam
thị trấn Ninh Hòa khoảng 4km).
Tuần thứ 12: Học đi cầu ba dây, cầu heo hai
dây, cầu rọ một dây (dây kinh dị), tuột núi, tuột càng trực
thăng bằng dây và xuống dây tử thần. Hai ngày chót toàn đại đội
thực hiện cuộc “Hành Quân Dã Chiến” quanh khu vực Núi Đeo, phải
đến và chiếm được ít nhất năm mục tiêu giả định trong hai ngày
hai đêm và đúng thời gian ước định.
Lễ mãn khóa Biệt Động Quân được tổ chức rất trang trọng vào
ban đêm tại sân cờ, cùng sự tham dự của Bộ Chỉ Huy Trung Tâm
Huấn Luyện. Khóa đàn em vừa nhập khóa sẽ làm đội quân danh dự,
tiễn khóa đàn anh ngày mai ra chiến trường. Trong bóng tối âm u,
bỗng nhiên có 9 tiếng nổ lớn vang lên tại sân cờ (thuốc nổ
simulator, không gây sát thương do Đại Đội Quân Cụ thiết trí),
cùng lúc đó có 13 cây đuốc thật lớn cũng cháy bùng lên rực sáng
khắp khu vực làm lễ. Sau khi cán bộ đại diện Khối Huấn Luyện
bước đến trao ba Bằng Thiện Xạ cho ba khóa sinh có số điểm tác
xạ cao nhất thì toàn đại đội quỳ xuống trên một chân, các sĩ
quan huấn luyện đại diện cho cán bộ Lò Luyện Thép bước đến đội
chiếc Mũ Nâu cho từng người. Sau cùng là những lời thề đồng loạt
vang lên ba lần: “Biệt Động Quân: Vì Dân Quyết Chiến!”
Huy hiệu Rừng Núi Sình Lầy
9. Chương Trình Huấn Luyện Dành Cho Khóa Rừng Núi Sình
Lầy:
Lúc ban đầu, từ năm 1961 khóa Hành Quân Biệt Động – Rừng Núi Sình
Lầy (gọi tắt Rừng Núi Sình Lầy) chỉ dành cho một số sĩ quan và
hạ sĩ quan của Lực Lượng Đặc Biệt, Người Nhái, Trinh Sát, Biệt
Kích của các binh chủng, v.v. Tính tới giữa năm 1962, đã có 13
khóa Rừng Núi Sình Lầy được đào tạo.
Kể từ Khóa 16 của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ở Đà Lạt (tháng
12/1962), các sĩ quan trước khi ra trường đều phải về Dục Mỹ học
khóa Rừng Núi Sình Lầy (nghĩa là khóa 16 Võ Bị học khóa 14
RNSL).
Và cũng từ năm 1972, những sĩ quan tốt nghiệp từ Trường Sĩ
Quan Trừ Bị ở Thủ Đức, nếu về binh chủng Biệt Động Quân, tất cả
cũng phải đến Dục Mỹ học Khóa Rừng Núi Sình Lầy.
Chương
trình huấn luyện về RNSL, ngoài các bài học căn bản về Chiến
thuật Tác Chiến Biệt Động, khóa sinh phải chịu đựng một sự thử
thách khắc nghiệt về thể chất cũng như tinh thần, được học về
những môn được coi là năng động nhất của Biệt Đông Quân, có thể
tác chiến trên mọi địa hình như rừng – núi – đồng bằng và lầy
lội.
Một khóa RNSL thu gọn trong 42 ngày, mỗi khóa có từ
100 đến 200 người. Lúc nhập khóa, sĩ quan (từ chuẩn úy tới trung
tá) không đeo cấp bậc mà mang trên túi áo hoặc trên mũ một mảnh
vải màu đỏ, hạ sĩ quan (từ trung sĩ tới thượng sĩ) mang màu vàng.
Lá cờ của khóa học tương tự như cờ của các khóa BĐQ, cũng mang
màu Nâu nhưng một bên may bốn chữ tắt là RNSL, mặt bên kia lá cờ
là CC 2. Khóa sinh cũng được trang bị ba–lô, súng đạn như một
quân nhân tác chiến và đội mũ lưỡi trai bằng vải.
Trong thời gian huấn luyện, khóa sinh RNSL phải hoạt động từ
4 giờ sáng đến 10 giờ tối, suốt 18 giờ một ngày, di chuyển đến
đâu đều phải chạy, kể cả trước khi ăn cũng phải hít đất, nhảy
xổm, đu xà ngang, v.v. Chương trình huấn luyện sẽ thực tập ở
những nơi như căn cứ Rừng, dưới chân núi Chư Giung, hướng Tây–Nam
Dục Mỹ khoảng 8km. Căn cứ Núi ở suối Trầu (cũng thuộc dãy núi
Chư Giung), hướng Tây–Bắc Dục Mỹ chừng 10km,
Căn cứ Sình ở đầm Nha Phú
dưới chân đèo Rọ Tượng, hướng Đông–Nam Dục
Mỹ khoảng 17km (Đông–Nam thị trấn Ninh Hòa 4km).
Rừng Núi Sình Lầy Đầm Nha Phú
Qua 63
khóa huấn luyện RNSL, chỉ một lần duy nhất là vào tháng 11/1964,
Khóa 19 của Trường Võ Bị về Dục Mỹ học Khóa 17 RNSL đã xảy ra
một tai nạn trong huấn luyện. Trong bài tập về địa hình và đột
kích đêm ở gần Hòn Khô (Đông–Nam Ninh Hòa 4km), một phần khóa
sinh (mang vần chữ T) của khóa học đã đi lạc vào một bãi mìn bỏ
hoang, mìn phát nổ làm 6 người tử thương và 15 người bị thương.
Huấn luyện viên hướng dẫn địa hình của bài tập hôm đó là Trung
úy Lê Phú Đào (Khóa 15 VBQG).
10. Chương Trình Huấn Luyện Dành Cho Khóa VIễn Thám:
Khóa Viễn Thám đựợc dành cho sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ
thuộc các ngành như Trinh Sát, Thám Sát, Thám Báo, Biệt Kích,
Thám Kích, Viễn Thám, v.v. của các quân binh chủng QLVNCH.
Một khóa Viễn Thám được thu gọn trong 32 ngày, mỗi khóa có từ 50
đến 100 khóa sinh. Lúc nhập khóa sĩ quan mang vải đỏ, hạ sĩ quan
vải vàng và binh sĩ mang vải xanh. Cờ hiệu của khóa cũng cùng
kích thước như BĐQ và RNSL, mang màu nâu với một bên là chữ VT
và một bên là CC 1. Khóa sinh cũng được trang bị ba–lô súng đạn,
mũ vải và khi di chuyển cũng phải chạy thường xuyên như khóa
Rừng Núi Sình Lầy.
Huy hiệu Viễn Thám
Chương trình huấn luyện của Viễn Thám phần lớn chú trọng về từng
toán tách biệt từ 3 đến 5 người. Đơn độc hoạt động trong rừng
sâu núi thẳm dò tìm dấu vết địch, hoặc để theo dõi một đơn vị
của đối phương, vẽ sơ đồ, đánh dấu vị trí địch và cũng có thể tổ
chức bắt cóc đem về khai thác tin tức. Khóa Viễn Thám cũng được
học về phương pháp ngụy trang cho cá nhân, ngụy trang vị trí ẩn
nấp, ngụy trang địa hình giả để đánh lừa, xóa dấu vết khi di
chuyển, v.v. Với một chương trình huấn luyện như vậy nên các
khóa Viễn Thám phải học về kỹ thuật xuống dây trực thăng ở mục
tiêu, móc vào dây trực thăng khi rời mục tiêu, hoặc được trực
thăng thả xuống một nơi thật xa rồi tự tìm đường về. Các nơi
được dành cho việc huấn luyện Viễn Thám là căn cứ Rừng, căn cứ
Núi, căn cứ Đá Đen (Đông–Nam Núi Đeo), căn cứ Cọp Đen (Tây–Bắc
Núi Đeo), v.v.
11. Kết Luận:
“Đèo cao thì mặc đèo
cao
Tinh thần Biệt Động vẫn cao hơn đèo
”
Tính đến năm 1965, TTHLBĐQ ở Dục Mỹ đã hoàn tất việc thành
lập các tiểu đoàn BĐQ, có tất cả 20 tiểu đoàn được thành lập là:
TĐ11 BĐQ, 21, 22, 23, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39,
41, 42, 43, 44, 51, 52. Riêng Tiểu Đoàn 41, vào năm 1972 đã đổi
số hiệu đơn vị thành Tiểu Đoàn 58, BĐQ. Ngoài ra, từ năm 1970,
với sự sáp nhập các trại Dân Sự Chiến Đấu từ Lực Lượng Đặc Biệt,
Binh chủng BĐQ lại có thêm 37 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên
Phòng ở khắp bốn quân khu. Những tiểu đoàn đó là: TĐ61 BĐQ, 62,
63, 64, 65 (giải tán cuối năm 1973), 66 (60), 67, 68, 69, 70, 71
(giải tán cuối năm 1973), 72, 73 (giải tán cuối năm 1973), 74 (giải
tán cuối năm 1973), 75 (giải tán cuối năm 1973), 76, 77, 78, 79,
80, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 89, 90, 91 (giải tán cuối
năm 1973), 92, 93, 94, 95, 96, 97. Hơn một nửa của số Tiểu đoàn
BĐQ Biên Phòng nêu trên đã được gởi về TTHLBĐQ ở Dục Mỹ để tái
huấn luyện. Đến cuối năm 1974, Binh chủng BĐQ đã thành lập thêm
hai liên đoàn mới. Liên Đoàn 8 BĐQ với ba Tiểu Đoàn: TĐ84 BĐQ,
86, 87 và Liên Đoàn 9 BĐQ với ba Tiểu Đoàn: TĐ93 BĐQ, 97, 99. Cả
hai liên đoàn này đều về TTHLBĐQ ở Dục Mỹ để tái huấn luyện
trước khi ra chiến trường.
Theo tổ chức của binh chủng, mỗi Liên Đoàn BĐQ có một Đại Đội
Công Vụ với 213 người, Đại Đội Thám Kích Biệt Động có 111 người,
Đại Đội Vận Tải 114 người, Đại Đội Công Binh 122 người, Trung
Đội Pháo Binh với 4 súng 105mm và 30 người, Trung Đội Truyền Tin
20 người, Trung Đội Quân Y 20 người. Trên lý thuyết thì mỗi tiểu
đoàn có 745 người, một liên đoàn có hơn 2,800 người nhưng trong
thực tế thì quân số hành quân chỉ có từ 1,700 đến 2,200 quân
nhân. Vì hành quân liên miên, hiếm khi được nghỉ ngơi nên quân
số nhiều liên đoàn thường xuyên thiếu hụt.
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân QLVNCH là nơi huấn luyện,
cấp phát một Bằng và hai Chứng Chỉ tốt nghiệp về Chiến Thuật Tác
Chiến Biệt Động, không chỉ trong quân lực mà còn dành cho quân
đội đồng minh (giá trị vĩnh viễn).
Bằng Căn Bản Biệt Động Quân (B 1, BĐQ) được
cấp cho quân nhân các cấp trong binh chủng, phụ cấp mỗi tháng
800 đồng (1960–1965: $300, 1966–1970: $600).
Chứng Chỉ 1 (CC 1, BĐQ), được cấp cho binh
sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan trong quân lực đã tốt nghiệp sau 32 ngày
huấn luyện về Viễn Thám, phụ cấp mỗi tháng $700 (1961–1965:
$300, 1966–1970: $500).
Chứng Chỉ 2 (CC 2, BĐQ), được cấp cho hạ sĩ
quan, sĩ quan trong quân lực đã thụ huấn và tốt nghiệp sau 42
ngày học khóa Hành Quân Biệt Động – Rừng Núi Sình Lầy, phụ cấp
mỗi tháng $800 (1961–1965: $300, 1966–1970: $600)
(Từ năm
1972 và về sau, các sĩ quan cấp thiếu tá, trung tá, đại tá trong
quân lực thuộc những ngành chuyên môn (không tác chiến), buộc
phải về Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ để học trong 3 tuần khóa B 2 (Bằng
2 BĐQ dành cho sĩ quan trung cấp và cao cấp. Đây là Huấn Thị của
Tổng Cục Quân Huấn ban hành trong tháng 1/1972. Bằng B 1 BĐQ tức
là Bằng Căn Bản như đã nói ở trên).
Từ năm 1961 đến năm 1975, Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân
QLVNCH đã đào tạo được 504 khóa BĐQ, mỗi khóa có hơn 200 quân
nhân.
Đào tạo được 87 khóa Viễn Thám, trong đó có 2 khóa cho quân
đội Nam Hàn, 1 khóa cho quân đội Thái Lan.
Đào tạo 64 khóa Rừng Núi Sình Lầy, kể cả 1 khóa cho quân đội
Nam Hàn, 1 cho Thái Lan và 1 khóa cho Phi Luật Tân.
Huấn
luyện và cấp bằng tốt nghiệp Thiện Xạ qua 28 khóa bắn tỉa dành
cho các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng, mỗi khóa có 10 quân
nhân, học trong 4 tuần (chương trình này bắt đầu năm 1970, bỏ
hẳn vào năm 1974).
Huấn luyện Bổ Túc được tất cả 27 tiểu đoàn BĐQ từ các Quân
Khu gởi về thụ huấn.
Từ cuối năm 1974 đến đầu năm 1975, đã huấn luyện được 6 Đại
Đội Thám Kích Biệt Động, thuộc các Liên Đoàn 8, 9, 11, 12, (LĐ
1), 14, 15.
Về tổ chức của Đại Đội Thám Kích Biệt Động: Đại Đội Trưởng
cấp đại úy, Trung Đội Trưởng cấp thiếu úy. Quân số 111 người. Bộ
Chỉ Huy và Tổng Đài Hành Quân (Truyền Tin), 11 người. Hai Trung
Đội Viễn Thám (1+2), hai Trung Đội Thám Kích (1+2), mỗi trung
đội 25 người (bản thân người viết bài này từ 1974 đến 1975 đảm
trách Trưởng Tổng Đài Hành Quân của Đại Đội 14 Thám Kích Biệt
Động, Liên Đoàn 14 BĐQ, Liên Đoàn Trưởng Trung tá Chung Thanh
Tòng, Liên Đoàn Phó Thiếu tá Đào Trọng Vượng).
Vào tháng 6/1962, ba tiểu đoàn thứ nhất của Binh chủng Biệt
Động Quân được thành lập là Tiểu Đoàn 10 Đặc Biệt (Đà Nẵng),
Tiểu Đoàn 20 Đặc Biệt (Pleiku), Tiểu Đoàn 30 Đặc Biệt (Sài Gòn).
Tháng 5/1963, hai Tiểu Đoàn 10 và 20 được đổi số hiệu và danh
xưng thành Tiểu Đoàn 11 BĐQ và Tiểu Đoàn 21 BĐQ. Tiểu Đoàn 30
Đặc Biệt tuy không đổi số hiệu nhưng thành Tiểu Đoàn 30 BĐQ.
Cùng lúc đó Tiểu Đoàn 31 Biệt Động Quân cũng được thành lập.
Tiểu Đoàn 31 BĐQ là tiểu đoàn thứ nhất của binh chủng được huấn
luyện đầy đủ nhất, được trang bị hùng hậu nhất và cũng là tiểu
đoàn thứ nhất được thành lập ở Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động
Quân. Hai tiểu đoàn tiếp theo cũng được thành lập ở Dục Mỹ là
Tiểu Đoàn 32 và Tiểu Đoàn 22 BĐQ.
Theo thống kê của Tổng Cục Quân Huấn vào năm 1973. Quân nhân
trong Binh chủng Biệt Động Quân có 40% gốc miền Nam, 35% gốc
miền Trung, 20% là đồng bào thiểu số, 4% gốc Sài Gòn và 1% gốc
miền Bắc (Nhảy Dù: 37% gốc miền Bắc, 15% gốc miền Nam, 10% gốc
miền Trung, 6% gốc Sài Gòn. Thuỷ Quân Lục Chiến: 32.5% gốc miền
Nam, 29.6% gốc miền Trung, 22.6% gốc miền Bắc và 13% gốc Sài Gòn).
Trong một thống kê năm 1970 của Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự –
Việt Nam (Military Assistance Command – Viet Nam – MACV): Biệt
Động Quân là một binh chủng có số người tình nguyện đông nhất,
trung bình từ 8,000 tới 9,000 trong một năm. Tuy nhiên BĐQ lại
chiếm số quân nhân đào ngũ đông nhất trong quân lực, từ 3,000
đến 4,000 người trong một năm.
Phân tích nguyên nhân:
Giai đoạn 1. Từ lúc thành lập cho đến năm 1968, các
Đại Đội rồi Tiểu Đoàn BĐQ luôn bị đặt trong tình trạng sẵn sàng
tiếp ứng, tăng phái, v.v. cho các sư đoàn, trung đoàn bộ binh,
cho Nhảy Dù, Thủy Quân Luc Chiến và cho cả các Tiểu Khu. Những
đơn vị BĐQ thường xuyên bị điều động hành quân liên miên bởi các
nơi nhận tăng phái. Những người lính BĐQ rất hiếm khi được đi
phép và thường ở một nơi rất xa với gia đình. Đây là lý do họ
phải bỏ đơn vị để về thăm nhà. Con số đào ngũ cao tới mức Đại
tướng William C. Westmoreland, Tư Lệnh MACV đã có dự tính cho
tái tổ chức 20 tiểu đoàn BĐQ thành hai Sư Đoàn nhẹ để tránh tình
trạng bị xé lẻ và tăng phái các nơi. Hơn nữa, ngành tư pháp và
căn cước của Việt Nam không đủ phương tiện xác nhận lý lịch cá
nhân. Luật Động Viên ấn định tuổi quân dịch là 18 và phải có thẻ
căn cước, nhưng với tuổi 17 chỉ cần một tờ Giấy Khai Sinh là có
thể tình nguyện vào quân đội.
Giai đoạn 2. Sau biến cố năm Mậu Thân 1968, Luật
Tổng Động Viên đã hạ tuổi quân dịch xuống còn 17, đương nhiên
tuổi tình nguyện cũng hạ xuống còn 16. Cũng từ năm 1969 đến
1971, vì nhu cầu nhân lực cho chiến cuộc, Tổng Cục Quân Huấn có
quy định nếu tình nguyện vào quân đội sẽ được tặng thưởng
$4,500, gọi là tiền đầu quân (năm 1972 về sau tiền đầu quân tăng
lên $6,000).
Đúc kết thống kê:
Trong thực tế, số quân nhân trong quân đội, nói chung là đào ngũ
khá cao. Tuy nhiên sau khi đào ngũ thì ít có ai đi theo kẻ địch
là cộng sản, họ chỉ về thăm nhà môt thời gian rồi làm khai sinh
với tên mới tình nguyện trở lại quân đội. Vì thế tuy tình trạng
đào ngũ khá cao nhưng con số người nhập ngũ còn cao hơn nữa. Tất
cả chỉ vì chiến sự mỗi ngày thêm khốc liệt, các đơn vị phải hành
quân liên miên, người lính xa nhà quá lâu. Họ phải tự “mình cấp
phép cho mình”, về thăm nhà rồi trở lại quân đội với danh tính
mới.
Bên cạnh những chi tiết nêu trên còn có một trường
hợp khác gọi là “lính mùa”. Số này tình nguyện nhập ngũ chủ yếu
nhắm vào ba tháng lương ở quân trường và tiền thưởng đầu quân.
Sau khi ra trường, lúc trên đường di chuyển về đơn vị mới hoặc
nằm chờ ở hậu cứ, v.v. đương sự sẽ tìm mọi cách bỏ trốn với số
tiền khá lớn trong túi. Một hai tháng sau, đương sự lại làm khai
sinh mới và nhập ngũ tiếp ở các đơn vị hay binh chủng khác. Đây
là một thực tế thật đáng buồn nhưng cũng may chỉ là một con số
rất nhỏ.
12. Vấn Đề Tiếp Vận Trong Binh Chủng Biệt Động Quân:
Từ ngày thành lập năm 1960 đến 1970, vấn đề tiếp vận cho
riêng Binh chủng BĐQ là một vấn đề gây nhức đầu không những cho
Bộ Tổng Tham Mưu, mà cả Bộ Tư Lệnh MACV. Ngay từ lúc thành lập,
từ trung đội rồi đại đội, lên cấp chiến đoàn, liên đoàn thì binh
chủng này không được tổ chức một cơ cấu điều hành việc tiếp vận
cho nội bộ. Với quan niệm rằng những đơn vị BĐQ ở Quân Khu nào
thì do chính quân khu đó đảm trách việc tiếp vận cho lực lượng
BĐQ. Nhưng khi bên Quân Đoàn điều động đi tăng phái cho các đơn
vị bạn thì vấn đề tiếp vận mới lộ ra những khiếm khuyết của nó.
Khi đi tăng phái thì phần lớn các đơn vị nhận tăng phái luôn
dành ưu tiên cho các đơn vị cơ hữu của mình. Những nhân viên
tiếp liệu của BĐQ thường phải chạy đôn đáo các nơi vì thủ tục
hành chánh rườm rà, nguyên tắc cứng ngắc của hàng dọc, hàng
ngang, v.v. thì đơn vị BĐQ nơi tuyến đầu mới có những đáp ứng
theo yêu cầu, và thường không được đầy đủ hoặc chậm trễ.
Một ví dụ điển hình: Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn
719, Liên Đoàn 1 BĐQ được chỉ định tăng phái làm tiên phong cho
Sư Đoàn Nhảy Dù, nhưng sau lúc Tiểu Đoàn 39 đổ quân xuống thiết
lập Ranger North, Tiểu Đoàn 21 xuống lập Ranger South, thì lúc
ấy ở Khe Sanh mới sực nhớ ra: Đơn vị nào chịu trách nhiệm về
tiếp tế cho BĐQ ở bên Lào? Ngày 10/2/1971, ngày thứ ba của cuộc
hành quân, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I ở Khe Sanh (Căn Cứ
Hàm Nghi) phải cử hai vị Đại tá đến Căn Cứ Phú Lộc, nơi đặt Bộ
Chỉ Huy Hành Quân của Liên Đoàn 1 (bên này biên giới 1km) gặp vị
Liên Đoàn Trưởng, Đại tá Nguyễn Văn Hiệp để cùng bàn việc tiếp
tế cho hai tiếu đoàn BĐQ trên đất Lào. Thay vì trực thăng đáp
xuống Căn Cứ Phú Lộc thì phi công bay lạc qua bên kia biên giới,
bay thật thấp ngang qua Tiểu Đoàn 21 BĐQ. Chỉ vì một sơ suất về
tiếp tế cho BĐQ, chiếc trực thăng đó bị cộng sản bắn rơi làm
thiệt mạng hai sĩ quan cao cấp của quân đoàn, phi hành đoàn 4
người Mỹ, một sĩ quan tiếp liệu của LĐ 1 BĐQ, một phóng viên
quân đội người Việt và 4 phóng viên ngoại quốc. Đó là chuyện
hành quân. Còn ở hậu phương, phần lớn những doanh trại hậu cứ
cấp tiểu đoàn, liên đoàn thì quá cũ, có nơi được xây cất từ thời
Pháp. Riêng các khu gia binh trực thuộc thì còn xơ xác hơn,
thiếu nhà ở, thiếu trường học, thiếu bệnh xá, v.v. dành cho gia
đình binh sĩ. Cũng may mắn là điều này đã được các cố vấn Mỹ
trong đơn vị thấy được và cảm thông cho những thiếu thốn đó.
Thêm một ví dụ điển hình: Trong tháng 10 năm 1969,
một phái đoàn thanh tra từ Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Chỉ Huy Biệt
Động Quân, Bộ Chỉ Huy Cố Vấn BĐQ ở MACV đến thăm Trại Phan Hanh,
hậu cứ của Liên Đoàn 3 BĐQ ở Long Bình, Thiếu tá Nguyễn Văn Biết,
Chỉ Huy Hành Chánh Công Vụ của LĐ 3 và các cố vấn phúc trình cho
phái đoàn thanh tra: “Toàn liên đoàn có 82 chiếc xe lớn nhỏ,
nhưng mỗi ba tháng chỉ được cấp 80 lít xăng, 15 lít dầu cặn.
Binh sĩ thiếu áo giáp, thiều giày, thiếu quần áo, v.v. mà lẽ ra
phải được cung cấp theo bảng phân phối từ Tổng Cục Tiếp Vận.
Binh sĩ phải mua ngoài chợ đen, nên đã nghèo càng chịu nghèo
thêm”. Nhà cửa doanh trại hư nát, khu gia binh xác xơ, đến mức
các vị cố vấn trong liên đoàn thấy thảm quá nên cố gắng tiếp xúc
với một đơn vị Mỹ đóng gần đó là Lữ Đoàn 20 Công Binh Kiến Tạo.
Các cố vấn yêu cầu được giúp đỡ thì bộ chỉ huy của đơn vị này
chấp nhận bằng cách: Lúc đơn vị họ ra ngoài hành quân, xe cơ
giới còn để lại cũng như gỗ, sắt, v.v. cứ lấy sử dụng đến khi
đơn vị trở về. Vậy là các cố vấn cùng quân nhân ở hậu cứ hối hả
phơi nắng làm việc “tu bổ” doanh trại, tuy nhiên cũng có các thứ
phải bỏ tiền túi ra mua ở bên ngoài. Nhờ lòng hảo tâm này, Trại
Phan Hanh của LĐ 3 BĐQ mới làm thêm hoặc sửa sang được tất cả 90
căn nhà cho 148 gia đình của TĐ 31 BĐQ, 90 căn nhà cho 219 gia
đình của TĐ 52 BĐQ, còn TĐ 36 BĐQ thì ở riêng trong khu Hoàng
Hoa Thám, và 103 căn nhà của 145 gia đình thuộc tiểu đoàn này
cũng cần sự giúp đỡ. Lúc vị Trưởng Đoàn Thanh Tra, Đại tá Lê
Quang Hiển đến quan sát hai trường tiểu học dành cho các cháu
Hướng Đạo, nam và nữ thuộc liên đoàn, ông thẳng thắn nhận xét: “Cả
hai trường này chỉ đạt 25% theo yêu cầu của ngành giáo dục.
Trong tương lai, con em của quân nhân rồi sẽ vào quân đội nếu
không có thêm trường được xây cất”... (Rangers at War – LRRPs in
Vietnam, by Shelby L. Stanton).
Tính đến tháng 8/1964, số cố vấn Mỹ đang phục vụ trong Binh
chủng BĐQ là 35 sĩ quan, 19 hạ sĩ quan.
Tới đầu năm 1965, số cố vấn là 42 sĩ quan, 36 hạ sĩ quan.
Đầu năm 1966, có 54 sĩ quan và 64 hạ sĩ quan.
Giữa năm
1967, số cố vấn là 55 sĩ quan, 79 hạ sĩ quan.
Năm 1968, 65 sĩ quan 91 hạ sĩ quan.
Năm 1969, 60 sĩ quan 85 hạ sĩ quan.
Năm 1970, 43 sĩ quan 70 hạ sĩ quan.
Năm 1971, 30 sĩ quan 48 hạ sĩ quan.
Năm 1972, 20 sĩ quan 33 hạ sĩ quan (không còn cố vấn cấp tiểu
đoàn).
Từ năm 1965 đến 1971:
Mỗi bộ chỉ huy liên đoàn BĐQ có 6 cố vấn, 3 sĩ quan, 3 hạ sĩ
quan.
Mỗi tiểu đoàn BĐQ có 5 cố vấn, 2 sĩ quan và 3 hạ sĩ quan.
Từ năm 1960 đến 1973, có gần 1,000 sĩ quan và hạ sĩ quan của
quân đội Mỹ làm cố vấn trong Binh chủng Biệt Động Quân. Có tất
cả 55 vị tử trận, gần 200 người bị thương (xin đọc thêm nơi bài
“Một Nén Hương Cho Những Người Nằm Xuống” của BĐQ Đỗ Như Quyên).
Trong bản tổng kết thành tích của Bộ Chỉ Huy Trung Ương, Biệt
Động Quân QLVNCH: Từ ngày 1/7/1960 đến ngày 28/1/1973, riêng
Binh chủng BĐQ đã hạ sát được khoảng 40,000 quân cộng sản, bắt
7,000 tù binh, đón nhận 255 người ra hồi chánh, tịch thu 10,941
súng cá nhân và 1,167 súng cộng đồng. Con số này không tính đến
các chiến tích đã lập được cho những đơn vị mà BĐQ đã tăng phái
(The Black Tigers, by Michael Martin. The Vietnamese Ranger: An
Overview, by MacDonald Valentine).
Dưới đây là danh sách các Đại Đội Biệt Động Quân vào những
năm đầu, từ 1960 tới 1962. Có một số đại đội được tổ chức thành
những tiểu đoàn và tìm ra được các đại đội nào. Tuy nhiên cũng
còn rất nhiều đại đội khác ở các tỉnh nhưng không biết về tiểu
đoàn nào. Nay xin ghi lại với hy vọng có người nhớ lại những đại
đội đó thuộc tiểu đoàn nào:
Tỉnh Thừa Thiên: Đại Đội 101, 102, 103, 104, 105 được đưa về
Đà Nẵng thành lập Tiểu Đoàn 11 BĐQ.
Tiểu Đoàn 21 với các Đại Đội: 203, 206, 303, 304, 305.
TĐ 22: 201, 202, 204, 207, 208, 209.
TĐ 30: ĐĐ 307, 308, 309, 310.
TĐ 33: 318, 319, 322, 339, 367.
TĐ 37: 313, 324, 327, 342.
Đại Đội 350 giải tán để lập Bộ Chỉ Huy cho ba TĐ 21, 37, 39
BĐQ.
TĐ 42: 315, 363, 365, 369.
TĐ 52: 347, 348, 351, 352.
Tỉnh Bình Định: ĐĐ 205, 211.
Tỉnh Khánh Hòa: ĐĐ 301, 302 (sáp nhập vào TTHLBĐQ ở Dục Mỹ).
Tỉnh Bình Tuy: 311, 317, 333, 341.
Tỉnh Phước Thành: 314, 321, 324, 330, 335, 336, 338, 343,
350.
Tỉnh Long Khánh: 323.
Tỉnh Phước Long: 312, 313, 320, 329, 342.
Tỉnh Tuyên
Đức: 210.
Tỉnh Long An: 356, 357.
Tỉnh Phong Dinh: 368.
Tỉnh Kiến Tường: 351, 355.
Tỉnh Kiến Phong: 347, 348.
Tỉnh Kiến Hòa: 353, 354.
Tỉnh Định Tường: 334.
Tỉnh Chương Thiện: 361.
Tỉnh An Giang: 360, 366.
Tỉnh An Xuyên: 315, 365, 370, 362, 363, 364, 369.
Khu
vực Sài Gòn: 306, 307, 308, 309, 310.
Như vậy, trong tổng số 20 tiểu đoàn ban đầu của BĐQ, đã tìm
được 8 tiểu đoàn với gốc cũ từ những đại đội biệt lập nào. Còn
lại 12 tiểu đoàn, ước mong có vị đàn anh nào nhớ lại, xin lên
tiếng giúp cho. Vô cùng đa tạ.
Bài viết này tuy được tham khảo từ các nguồn tài liệu của Mỹ
lẫn Việt, cũng như phỏng vấn các vị đàn anh qua điện thoại. Tuy
vậy vẫn có thiếu sót hay những chi tiết không chính xác. Rất
mong những ai biết được thêm chi tìết nào, hay sai lầm ở đâu xin
vui lòng liên lạc Tập San BĐQ để giúp chúng tôi bổ xung thêm
hoặc hiệu đính lại những sơ suất đó. Cảm ơn quý vị trước.
BĐQ Đỗ Như Quyên
(Ranger Charlie Brown Phương)
NGUỒN THAM KHẢO:
Kỷ Luật Sắt: Biệt Đông Quân, QLVNCH. Nguyễn Kim Biên.
Màu
Nâu Trong Ký Ức – Biệt Động Quân. Ngọc Dạ Lý Hương.
Đôi Nét
Khái Quát Về Lò Luyện Thép Của Biệt Động Quân. Nguyễn Thanh Vân.
Cọp Ba Đầu Rằn. Hồ Viết Lượng. Tập San BĐQ số 24, tháng 9, 2008.
Biệt Động Quân, QLVNCH. Vũ Đình Hiếu.
Dục Mỹ, Lò Luyện Thép.
Giang Văn Nhân.
Rangers at War, by Shelby L. Stanton.
The
Black Tigers, by Michael Martin.
The Vietnamese Ranger: An
Overview, by MacDonald Valentine.
To Fight With Intrepidity – The Complete History of the U.S.
Army Rangers 1622 to Present, by John D. Lock.
Căn cứ Dục Mỹ