Trên quê hương tự do miền Nam Việt Nam, trong hơn 20 năm
chiến tranh, có những người nhận lãnh phần thức cho người khác ngủ, chết
cho người khác sống. Đó là những
Người Lính Việt Nam Cộng Hoà.
Họ là ai?
Họ là những chàng trai mắt sáng, môi tươi, tâm hồn trẻ
trung phơi phới tinh tươm, là học sinh, sinh viên, là con em những gia đình lao động
ở thành thị, hay nông dân chơn chầt ở nông thôn. Họ là những thanh niên tuổi
đôi mươi căng tràn nhựa sống, ăm ắp mộng mơ, là những con người
rất bình thường, cũng đầy những thương ghết vui buồn... Sinh ra và
lớn lên trong buổi loạn ly, dù không ham chém giết, dù ham sống, sợ chết, họ bình
thản chấp nhận bổn phận được chính quyền, đại diện cho
người dân giao phó, trở thành những người LÍNH.
Những người trẻ, mười chín, hai mươi, hay 21
tuổi "vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai" ấy đã lấy
đất làm giường, lá làm màn, bỏ lại sau lưng ánh đèn màu cuả đô thị
phốn hoa, mài miệt đêm rồi lại ngày, chỉ rừng và núi. Họ chỉ biết yêu
những cánh rừng lá thấp, vì đấy là màn che cho họ và đồng đội khỏi
mắt quân thù, dù họ không quên những ngày hoa mông.
Rừng lá lá xanh xanh cây phủ đường đi
Thành phồ sau lưng ôm mộng ước gì
Tôi là người đi chinh chiến dài lâu
Nên mộng ước đầu nghe như đã chìm sâu
Từ máy thâu thanh cô nàng vừa ca
Trọn kiếp yêu anh lính khổ xa nhà
Giữa rừng già vang tiếng hát thật cao
Nhưng giứ rừng già tôi có thấy gì đâu
Sao không hát cho những người giết giặc trên cầu
Khi bùn lấy còn pha sắc màu xanh
Trong khói súng xây thành
Mắt quầng thâm mất ngủ
Tàn đêm chiến cuộc, giờ chỉ còn hai tiếng yêu anh
Sao không hát cho những người còn mải mê
Lá rừng che kín đưòng về phồn hoa
Không hát cho những bà mẹ hằng đêm nhớ con xa
Hay hát cho những người vưà nằm xuống chiều qua
Rừng là xanh xanh núi đồi chạy quanh
Đời lính quen yêu gian khổ quân hành
Nghe từ ngày thơ khói súng triền miên
Đánh giặc lâu bền cho non nước bình yên
Lời hát xin gây rung động rừng sâu
Đừng hát như chim giữa rừng lá sầu
Xin thật lòng qua câu hát đầu môi
Như lính giữ rừng yêu lá thấp mà thôi
(Nhạc: Rừng lá thấp - Trần thiện Thanh)
Đất anh ở và rừng anh thở
Sớm anh đi chiều lại trở về
Rừng vi vút những đêm gió thổi
Bóng anh chìm với bóng hư vô
Đôi khi đứng bên triền đá dưng
Anh hoang mang sợ núi đè mình
Có khi thấy con chồn con cáo
Anh giật mình lònh thoáng hãi kinh
Anh đi qua rừng cao quá đỗi
Anh đi về rừng quá đỗi cao
Anh thấy rồi, anh: con sâu gạo
Nằm rung rinh trong đám lá rì rào
Và buồn thảm ôi những chiều lặng lẽ
Núi và anh thành hai kẻ đăm chiêu
Núi ngó anh và anh ngó núi
Núi đụng trời va anh đụng nỗi đìu hiu
Đất anh ở và rừng anh thở
Quá lâu ngày nên thấy hoang mang
Anh sống dở và anh chết dở
Giữa núi rừng cao ngất ngàn năm
(Thơ: Ở trong rừng lâu ngày - Phạm cao Hoàng)
Những người lính VNCH ấy, trong hai mươi năm dài, hàng
hàng lớp lớp, tai nghe tiếng đạn réo, bom rơi, mà lòng vẫn mềm như gió.
Sinh mạng treo đầu súng nhưng tim chẳng hận thù. Họ ngày lội ruộng,
đêm băng rừng nhưng mỗi lúc dừng chân, họ lại tha thiết nhớ về mẹ,
về em, về quê hưong, xóm làng, về những ngày thơ ấu.
Phải là những người đã cùng chia với họ
túi cơm sấy nguội lạnh, hớp nước hố bom, đi cùng họ hàng mười ngày
không thấy ánh mặt trời, và khi dừng chân bên trảng trống ở bià rừng, mới vừa
tạm ngả lưng vào gốc cây chưa kịp lại sức, đã nghe lệnh tiếp tục
lên đường; thì mới cảm được trọn vẹn tấm lòng rất đỗi
thô sơ, nhung vô cùng tha thiết cuả người lính trẻ ngâm nga ca hát bên rừng.
Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm
Sương trắng rơi vai tôi buốt lạnh mềm
Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu
Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau
Nào những khi ôm thép súng tê tay
Đắm mắt theo bao hư ảo thở dài
Nơi chốn xa cuộc đời mẹ quẳng gánh
Em còn khều sáng ánh đèn từ sương mai
Mẹ biết con giờ đang ngồi hố nhỏ
Gió hẹm mưa thề một khi con về quê ngoại xưa
Để mẹ nhắn lời thăm
Trường làng cũ năm nào khi con còn bé nhỏ
Theo mẹ đền trường giờ đây con đường xưa còn đó
Tóc liều vờn gió ru hoài...
Bận hành quân nên chắc khó thăm nhau
Nhưng có nhau như hơi thở vào đời
Tóc em còn có thơm hương cỏ may
Để anh nói chuyện ngày mai
Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi
Dăm đứa thân đôi khi chẳng trở về
Xin có em nguyện cầu cho đời anh
Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương lai...
(Nhạc: Sương trắng miền quê ngoại - Đinh miên Vũ)
"Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm..."
bài nhạc đầy cải lương nói về người lính
Nam Bắc phân tranh, chiến hào Nguyễn Trịnh
điệu Habanera nón sắt úp lên đầu
"sương trắn rơi vai tôi ướt..." rồi sao
Vai ai ướt, Bắc kỳ hay Nam bộ?
đời lính thú lưu đồn quên cố thổ
"LÍNH" viết hoa, bap ngôn ngữ đều thừa
gặp lại bạn bè cũ vẫn như xưa
thằng nào cũng hát bài ca tang chế
điệu Bolero như một lời trách khẽ
tiếng đàn đêm bỗng hóa tiếng than dài
phải rồi tiếng đàn quen thuộc Chu Lai
nắp hầm đầy rêu ta ngồi bưng mặt khóc
tay gõ nhịp kiểu xênh tiền lóc cóc
nhạc ngựa reo thấp thỏm nhạc nam trầm
phải rồi tiếng đàn quen thuộc ở Chư Prong
dân "sinh Bắc tử Nam" không cần Trương Lương thổi sáo
thằng "ca sĩ Lính Cộng Hoà" cụt đầu cây Guitar chảy máu
khán giả hét "xung phong" qua tiếng hát ngậm ngùi
phải rồi tiếng đàn quanh quất đây thôi
thằng Nhái Hài quân, thằng Nhảy dù, thằng Lôi hổ
cũng tiếng đàn ấy xưa mà chẳng cũ
dù đứt một giây, gân cổ vẫn nghẹn ngào
mười năm mới gặp nhau mỗi đứa một cơn đau
cởi áo binh chủng sao hồn còn vằn vện
nói gỉ đây khi rửa tay gác kiếm
chỉ biết lặng im chờ thái độ tiếng đàn
tiếng đàn cuả binh nhì không giống sĩ quan
lại habanera, lại boreo, lại những bài hát ấy
không phải tango, không phải valse quý phái
mà rất rưng rưng con mắt kẻ giang hố
"giải phóng" về ta bỏ súng làm thơ
bạn bè tàn phế phải ăn mày hát dạo
tiếng đàn từ đó trở thành ra giọt máu
máu đã ưá ra không thể ứa hai lần
không thể một gả lính dù đã từng cõng bạn tải thương
lại đóng ngược vào đời mình đinh nhọn
cảm ơn lời ca và tiếng đàn chưa muộn
đã đánh thức ta sau mười buổi công hầu
(Thơ: Đêm lính ngụy- Bùi chi Vinh)
Người lính ấy suốt hai mươi năm, vai mang ba lô, tay
ghìm chặt súng, lội qua những cánh đồng sình lầy ở Đồng tháp,
Năm căn, nơi điả lội như bánh canh, muỗi kêu như sáo thổi, đi qua những
điạ danh xa lạ: Ashau, A Lưới, Ia Drang, Toumorong, Pleime,..., Chu Pao
- "ai oán hờn
trong gió, mỗi tấc khăn tang, một khúc đường."
Anh miệt mài những ngày truy lùng địch nơi Cổ Thành Quảng
Trị, bên dòng sông Dakbla, cuồn cuộn nước phù sa đỏ ngầu như máu. Đã có
những người bạn cuả anh nằm yên trong rừng cao su Đồng Xoài, trên bãi cát Sa
Huỳnh, hay trên cánh đồng miền tây xanh ngát luống mạ non.
trời bỗng sầm đen toé sấm sét
mặt đất ào ào trận pháo tuôn
trong thành phố tử thần co quắp
viên đạn cuối cùng đã bắn đi
người chết giữa trời - trên đồi cháy
hồn anh thảng thốt bay lên không
suốt dọc Trường Sơn đất run rẩy
mặt trời chưa thấy đêm dài ôi
từng khối lớn mêng mông đặc cứng
qua khe nhìn tại đồi C2
nhớ anh em ta đã nằm xuống
(Thơ: Ngày mưa đọc lại Dấu binh lửa - Đỗ quý
Toàn)
Thế nhưng người lính ấy, đi chiền đấu với tâm niệm "súng đạn
dẫu vô tình, nhưng lòng người thì độ lượng", biết quý vô cùng sự sồng,
nhưng cũng không ngại thản nhiên dấn thân vào nơi binh lưả
nửa đêm kẻng dục quân ra trận
kinh động cả lòng đêm tối bưng
nhận lấy ba ngày cơm gạo sấy
không buồn chỉ một chút bâng khuâng
đời ta là con số không vô tận
may trên đầu còn có chiếc mũ rừng
mũ nhẹ nên coi trới cũng nhẹ
chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân
(Thơ: Trước giờ tiếp viện - Trần hoài Thư)
Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm nhung kỳ vĩ, người lính vẫn sống
và luôn gắng vượt qua chính mình va số phận, để ước mơ, một
giấc mơ hiền hoà về một ngày mai
Rồi có một ngày, một ngày chinh chiến tàn
Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi
Ngoài con tim héo em ơi
Xin trả lại đây, bỏ lại đây
Thép gai giăng với lũy hào sâu
Lỗ châu mai với những địa lôi
Đã bao phen máu anh tuôn, cho còn lại đến mãi bây giờ
Trả súng đận này, ôi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nào
Vui cùng ruộng nương, cùng đàn trâu
Với cây đa, khóm trúc, hàng cau
Với con đê có chiếc cầu tre
Đã bao năm vắng chân anh
Nên trở thành hoang phế rong rêu
Rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa
Rồi anh sẽ đón cha mẹn về
Rồi anh sẽ sang thăm nhà em
Với miếng cau, với miếng trầu, ta làm lại từ đầu
Rồi anh sẽ diù anh tìm thăm
Mộ bia kín trong nghĩa điạ buồn
Bạn anh đó đang say ngủ yên
Xin cám ơn! Xin cám ơn! Người nằm xuống
Để có một ngày, có một ngày cho chúng mình
Ta lại gặp ta, còn vòng tay mở rộng thương mến bao la
Chuông chùa làng xa, chiều lại vang
Bếp ai lên khói ấm tình thưiơng
Bát cơm rau thắm mối tình quê
Có con trâu, có nưong dâu
Thiên đường này mơ ước bao lâu
(Nhac: Một mai giã từ vũ khí - Ngân Khánh)
Người lính không mơ ước lớn lao. Họ chỉ mơ ước có ngày trả
súng đạn, cởi chiến y, về với em, với mẹ. Họ mơ có ngày sống sót
dể được đi tạ ơn những đồng đôi đã nằm xuống cho họ
và cho bao người được "làm lại từ đầu"
Nhưng hôm nay, đã 30 năm, có thật chiên tranh đã kết thúc? Người lính đã giã từ khẩu súng hôm qua, có thực an phận được sống đời một
kẻ thường dân, được gặp lại con trâu bên nương dâu, và có tìm được chốn thiên đường giản dị, mà anh, cũng như bao lớp người đã bao lâu
mơ ước?
Hai mươi năm chiến tranh, hơn năm trăm ngàn ngươì lính đã để lại một phần thân thể trên chiến trương, và một số tương đưong đã vĩnh
viễn gục bên súng mũ bỏ quên đời. Có ai trong chúng ta nhớ đến họ?
Từ trong tăm tối hận thù, người lính đã thắp sáng ý nghiã đời người, đã từ cõi chết bước vào sự sống bất tử.
Xin cám ơn và xin chân thành nguyện cầu cho anh.
Execitive Producer
Vietnamese Language Group
SBC Radio
PO Box 294
South Melboune, Victoria 3205, Australia
* Trích đăng từ Bán Nguyệt San KBC Hải Ngoại số 02 - Ngày 15 tháng 10, 2006
Hộp thư:
9353 Bolsa Ave. # K17
Westminster, CA92683
Điện thoại & Fax: (714) 554 - 1974
Email:
kbchaingoai@yahoo.com
chienhuu@hotmail.com