|
BIỆT ĐỘNG QUÂN QLVNCH
BĐQ Vũ đình Hiếu
Chú thích: Trung Tâm Việt Nam (Vietnam Center) thuộc Texas Tech
University đã tổ chức hai ngày (17, 18 tháng Ba) hội thảo, với chủ đề
"QLVNCH: Phản Ánh và Tái Thẩm Định sau 30 năm".
BĐQ Vũ Đình Hiếu, vốn là khách quen của trung tâm này, vì ông thường đến đây thuyết
trình hàng năm, đã trinh bày đề tài
RVN RANGER. Đề tài này nói về
binh chủng Biệt Động Quân, một binh chủng hào hùng của QLVNCH mà ông ta phục vụ
trước đây.
I. LỜI GIỚI THIỆU Binh chủng Biệt Động Quân QLVNCH được
thành lập vào tháng Bảy năm 1960 gồm những đại đội biệt lập. Những đại đội
Biệt Động Quân này được huấn luyện đặc biệt về du-kích chiến để tiêu diệt những
đơn vi Việt Cộng. Ngay từ lúc đầu, các chiến sĩ Biệt Động Quân đã
nổi tiếng là dũng mãnh với lối tấn công chớp nhoáng. Trưởng thành trong
khói lửa, các đại đội, tiểu đoàn Biệt Động Quân đã tham dự hầu hết những chiến
dịch, những cuộc hành quân nổi tiếng, những trận đánh đẫm máu trên khắp chiến
trường. Họ là những quân nhân can đảm, hãnh diện đội chiếc mũ beret mầu
nâu, mang trên vai phù hiệu binh chủng con báo đen nhe nanh. Phù
hiệu con báo đen thường được sơn đằng trước nón sắt để làm khiếp đảm tinh thần
địch quân, do đó Biệt Động Quân còn được mang danh là "Cọp".
Khi cuộc chiến lan rộng, các đại đội Biệt Động Quân biệt lập được gom lại, tổ chức thành cấp tiểu đoàn để có thể đối đầu với một đơn vị địch cấp lớn. Đến năm 1967, chiến tranh Việt Nam đã trở thành chiến tranh quy ước với những trận điạ chiến.
Binh chủng Biệt Động Quân được tổ chức lên tới cấp liên đoàn để có thể hành quân trên một chiến trường rông lớn hơn. Kể từ ngày thành lập, binh chủng Biệt Động Quân đã tham dự các trận đánh nổi tiếng sau đây:
- 1964: Bình Giả, hai tiểu đoàn 33 và 38
- 1965: Đồng Xoài, tiểu đoàn 52
- 1968: Tết Mậu Thân, tất cả các đơn vị Biệt Động Quân trên bốn Quân Khu.
- 1970: Vượt biên qua Kampuchia, các liên đoàn: 2, 3, 4, 5, 6
- 1971: Hạ Lào, liên đoàn 1
- 1972: Mùa Hè Đỏ Lửa, các liên đoàn: 1,
3, 4, 5, 6, 7
II. CÁC TRẬN ĐÁNH NỔI TIẾNG
- Bình Giả (28/12/1964)
Bình Giả là một ngôi làng nhỏ trong tỉnh Phước Tuy, dân số khoảng 6000
người, đa số là người Công Giáo di cư từ miền Bắc đến
định cư sau năm 1954. Làng Bình Giả có một vị trí chiến lược cách
thành phố Saigon khoảng 67 cây số về hướng tây.
Hai trung đoàn Việt Cộng 271, 272 thuộc công trường (sư đoàn) 9 VC từ
chiến khu C và D di chuyển ra vùng duyên hải để nhận đồ tiếp tế
từ miên Bắc. Sau đó cả hai đơn vị tập trung lại, tổ chức huấn luyện trong những cánh rừng cao su xung quanh làng Bình Giả.
Để mừng kỷ niệm bốn năm ngày thành lập MTGPMN, một tiểu đoàn
VC tấn công làng Bình Giả sáng ngày 28 tháng 12 năm 1964û. Ngôi làng nhỏ này chỉ có hai trung
đội Điạ Phương Quân phòng thủ. Sau khi chiếm xong làng, địch quân
được tăng viện thêm quân để cố thủ. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
III cho trực thăng đổ quân tiểu đoàn 33 Biệt Động Quân xuống Bình
Giả để phản công. Quân Việt Cộng đã biết trước, phục kích
nơi bãi đáp trực thăng làm thiệt hại đơn vị BĐQ. Các quân nhân BĐQ
rút vào một nhà thờ trong làng cố thu,û đợi quân tăng viện.
Ngày hôm sau, trực thăng đổ thêm tiểu đoàn 38 BĐQ nơi hướng nam làng
Bình Giả, để các chiến sĩ Mũ Nâu tấn công từ hướng nam lên. Trận
đánh kéo dài cả ngày, BĐQ vẫn chưa tiến được vào làng vì địch đã
đào hố chiến đấu, tổ chức phòng thủ rất vững chắc.
Sáng ngày 30, tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến được gửi đến
tăng viện cho Biệt Động Quân. Các đơn vị VC đã rút lên hướng
đông bắc và QLVNCH đã lấy lại được làng Bình Giả. Đến tối,
địch quân tấn công trở lại nhưng bị đẩy lui, tuy nhiên địch
bắn hạ được một trực thăng võ trang, rớt trong rừng cao su Quang Giao
cách làng Bình Giả khoảng 4 cây số.
Qua ngày 31, tiểu đoàn 4 TQLC được lệnh tiến lên, đi tìm chiếc trực
thăng lâm nạn cùng phi hành đoàn. Khi đơn vị TQLC tiến đến gần nơi
chiếc trực thăng, đại đội 2 bị phục kích, phần còn lại của
tiểu đoàn lên tiếp cứu cũng bị thiệt hại nặng phải rút về
Bình Giả.
Ngày 1 tháng Tư, hai tiểu đoàn Nhẩy Dù 1 và 3 được trực thăng đổ
xuống nơi hướng đông làng, nhưng quân VC đã biến mất. Trận Bình Giả
báo hiệu cho QLVNCH biết rằng địch quân có thể tổ chức những trận
đánh lớn.
- Đồng Xoài (0/9/1965)
Ngày 9 tháng Sáu năm 1965, Việt Cộng tung hai trung đoàn 762, 763 tấn công
Đồng Xoài, quận Đôn Luân trong tỉnh Phước Long. Đúng 11 giờ 30, chủ
lực quân địch tấn công trại Dân Sự Chiến Đấu do Lực Lượng
Đặc Biệt Hoa Kỳ vừa mới thiết lập. Bị tấn công bất ngờ,
DSCĐ cùng với ĐPQ rút lui vào trong quận để chống trả lại lực
lượng đông đảo của địch.
Quân VC mở bốn đợt tấn công nhưng vẫn không chiếm
được quận. Tức giận, chúng quay trở lại trại DSCĐ tàn sát
khoảng 200 đàn bà, trẻ em, vợ con của các quân nhân DSCĐ.
Sáng hôm sau, QLVNCH đưa một tiểu đoàn Bộ Binh và tiểu
đoàn 52 Biệt Động Quân (Sấm Sét Miền Đông) vào trận điạ.
Tiểu đoàn BB bị phục kích nơi đồn điền cao su Thuận Lợi gây
tổn thất nặng. Tiểu đoàn 52 BĐQ được không lực yểm trợ,
tấn công như vũ bão. Các chiến sĩ Mũ Nâu đánh tan những toán quân VC đang
bao vây quận Đôn Luân, sau đó quay trở lại càn quét địch ra khỏi trại
DSCĐ trước buổi sáng ngày hôm sau 10 tháng Sáu, 1965. Trong trận này, Biệt Động
Quân tịch thâu được nhiều tiểu liên xung kích AK-47, lần đầu tiên
được địch quân xử dụng trên chiến trường.
- Tết Mậu Thân 1968
Lợi dụng thời gian hưu chiến trong dip Tết Mậu Thân, quân Cộng Sản
Bắc Việt và Việt Cộng bất thần mở một loạt những trận
tấn công vào các thành phố trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tất cả các
đơn vị Biệt Động Quân trên khắp bốn vùng chiến thuật đã
được điều động phản công, đánh đuổi địch quân ra
khỏi các thành phố.
Trong thủ đô Saigon, tiểu đoàn 30 BĐQ đẩy lui địch
ra khỏi khu vực Hàng Xanh. Tiểu đoàn 38 BĐQ tảo thanh khu vực chùa Ấn Quang.
Các tiểu đoàn BĐQ 30, 33, 38 và đại đội Trinh Sát 5 thuộc liên đoàn
5/BĐQ đánh chiếm từng căn nhà, từng cao ốc trong khu vực Phú Lâm (Quận 6),
trường đua Phú Thọ và khu Bình An trong quận 7 nơi có nhiều kênh rạch. Tiểu
đoàn 41 BĐQ từ dưới vùng 4 được đưa lên tăng cường,
tảo thanh khu vực hãng rượu Bình Tây. Tiểu đoàn 35 BĐQ thuộc liên đoàn
6/BĐQ càn quét địch trong khu vực Chợ Lớn.
Các tiểu đoàn 11, 22, 23 Biệt Động Quân thuộc liên đoàn
2/BĐQ trên vùng cao nguyên cũng tham dự những trận phản công đuổi địch
ra khỏi các thành phố Plei-Ku, Đà Lạt, Qui Nhơn.
Trong Tết Mậu Thân, mặt trận ở Huế được
coi là trầm trọng nhất. Các tiểu đoàn 21, 37, 39 thuộc liên đoàn 1/BĐQ đánh
đuổi địch quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng, Hội An. Mặt trận
Huế coi như chấm dứt khi tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân cắm cờ
trong khu Gia Hội.
- Hành quân vượt biên qua Kampuchia (1970)
Ngoại trừ liên đoàn 1/BĐQ nằm ngoài vùng I chiến thuật,
các liên đoàn 2, 3, 4, 5 và 6 đều tham dự hành quân vượt biên qua Kampuchia lục
soát, phá hủy các căn cứ tiếp liệu, hậu cần của địch.
Các đơn vị Biệt Động Quân tịch thâu được rất nhiều
vũ khí đủ loại của giặc cộng và làm tiêu hao các công trường (sư
đoàn) chính quy 5, 7, 9 Việt Cộng.
- Hành quân Lam Sơn 719 (1971)
Hành quân Lam Sơn 719 đầu tháng Hai năm 1971 nhằm mục đích
phá hủy các căn cứ điạ 604 của quân đội Bắc Việt. Căn
cứ này nằm trên đất Lào nơi làng Tchépone. Tin tức tình báo cho biết,
địch quân xây dựng nhiều kho tiếp liệu chứa lương thực, súng
đạn. Căn cứ này còn được xử dụng làm nơi dưỡng quân cho
các đơn vị địch sau những lần chạm súng với các đơn vị
của ta. Ngoài ra về phiá nam, còn có thêm căn cứ 611, là nơi phát xuất cho các trận
tấn công trong tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế.
Liên đoàn 1/BĐQ là đơn vị trừ bị cho QĐ/I nên tham
dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ba tiểu đoàn thuộc liên đoàn 1 được
điều động như sau: tiểu đoàn 37 BĐQ nằm với bộ chỉ huy
liên đoàn trong căn cứ hành quân tiền phương ở Tà Bạt, gần biên giới
Lào Việt hướng Tây Bắc căn cứ Khe Sanh. Tiểu đoàn 21 BĐQ được
trực thăng Hoa Kỳ đưa đến bãi đáp ?Biệt Động Quân Nam? (Ranger
South), cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 cây số về hướng Đông Bắc.
Ba ngày sau, tiểu đoàn 39 BĐQ xuống bãi đáp ?Biệt Động Quân Bắc? (Ranger
North) khoảng 3 cây số Đông Bắc tiểu đoàn 21 BĐQ.
Nhiệm vụ của hai tiểu đoàn Biệt Động Quân là
thăm dò mức độ chuyển quân của địch và ngăn cản các mũi dùi
tấn công của địch vào hai căn cứ hỏa lực 30, 31 ở phiá nam.
Trường hợp hai căn cứ này bị tràn ngập, địch quân có thể cắt
đứt đường rút quân của ta trên đường số 9.
- Mùa Hè đỏ lửa (1972)
Cuối tháng Ba năm 1972, ngoài vùng điạ đầu giới
tuyến, CSBV xử dụng năm sư đoàn chính quy: 304, 308, 312, 324 và 325 mở trận
tấn công tràn qua sông Bến Hải và từ bên Lào sang. Ngày 5 tháng Tư, trận tấn công
quy mô thứ hai với ba công trường (sư đoàn) 5, 7, 9 thuộc Trung Ương Cục
Miền Nam từ đất Campuchia tiến vào bao vây thị xã An Lộc. Trận cuối cùng
xẩy ra trên vùng cao nguyên, lãnh thổ Quân Đoàn II. Ngày 6 tháng Tư, quân CSBV xử dụng ba
sư đoàn thuộc mặt trận B3 (Tây Nguyên) và Quân Khu V gồm có sư đoàn 2, 3 (Sao vàng)
và sư đoàn chủ lực 320 (Thép) tấn công các tiền đồn của QLVNCH trong
tỉnh và thành phố Kontum.
Các liên đoàn Biệt Động Quân đang hành quân dưới vùng IV,
bên Kampuchia hoặc trên lãnh thổ Quân Đoàn III: 4, 5, 6, 7 được đưa ra tham
chiến ngoài vùng I và trên vùng cao nguyên. Cùng với các liên đoàn trừ bị 1 và 2 ngoài quân khu,
các chiến sĩ Mũ Nâu đã sát cánh cùng với các binh chủng bạn giữ vững
phòng tuyến. Liên đoàn 3/BĐQ đã nằm trong An Lộc cùng với sư đoàn 5/BB ngay
từ những ngày đầu của trận chiến An Lộc
III. ĐOẠN KẾT
Trong suốt cuộc chiến, binh chủng Biệt Động Quân đã chiến đấu bảo vệ quê hương, nêu cao danh dự mầu cờ sắc áo của binh chủng. Các đơn vị Biệt Động quân đã được ân thưởng nhiều huy chương của cả hai chính phủ VNCH và Hoa Kỳ:
- 23 đơn vị BĐQ được ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội
Tinh với nhành Dương Liễu.
- Tiểu đoàn 42/BĐQ được ân thưởng 7 lần, tiểu đoàn
44/BĐQ được 6 lần, tiểu đoàn 43 và liên đoàn 1/BĐQ được
4 lần.
- Tiểu đoàn 42/BĐQ được ân thưởng huy chương của Tổng
Thống Hoa Kỳ (Presidential Unit Citation) 2 lần. Các tiểu đoàn BĐQ khác được
1 lần: 44, 37, 39, 52, và 41/BĐQ.
- Nhiều đơn vị BĐQ khác được huy chương Anh Dũng Bội Tinh
của Quân Lực Hoa Kỳ.
Các đơn vị Biệt Động Quân đã làm bổn
phận cuối cùng đối với đất nước, nhiều đơn vị
đã chiến đấu đến 1 giờ chiều ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ
đã được tạp chí Le Monde của Pháp ca tụng là
"Những người lính danh dự cuối cùng của Miền
Nam Việt Nam. "
Dallas 01/04/2006
|