Menu

Tạp Ghi

Chiến Tranh Âm Nhạc và

Người Lính Thực Thà

Huy Phương


       Dù được mệnh danh là cuộc chíến tranh giữ nước, chống xâm lăng, bảo vệ tự do, giải phóng, thánh chiến, nội chiến, hay là gì đi nưã, do nguyên ủy từ đâu, chiến tranh nào cũng đem lại đổ nát, chết chóc, khổ đau, chia lià cho con người.  Trong cuộc chiến giữ nước, miền Nam chúng ta đã trải qua những cảnh ngộ ấy.  Những đoàn xe chở binh sĩ ra mặt trận, những trực thăng tải thương trở về, những dãy quan tài phủ quốc kỳ, những vành khăn tang, những nạng gỗ... Trong thành phồ, người dân, dù không kề cận mặt trận, đêm đêm cũng có thể nghe tiếng đại bác dội về, thấy ánh hoả châu soi sáng một góc trời nào đó.

       Chiến tranh không những nghe được qua những bản tin chiến sự lạnh lùng, vô cảm với những con số thương vong.  Những cứ điểm mịt mù đâu đó trên những vùng đất xa xôi có thể chúng ta chưa bao giờ biết đến.  Chiến tranh còn được nghe qua những dòng nhạc trên đài phát thanh, trong câu lạc bộ ở quân trường, hay trong quàn nước ven đường.  Những dòng nhạc đó quá gần gũi với những người lính trẻ xa nhà, với người vợ trẻ có chồng đi trận, những bà mẹ có con vưà ra đơn vị, và với những ai đang sống gần chiến tranh.  Lời nhạc gần gũi, thiết thân, dễ nhớ, dễ thuộc nằm lòng vì nó có thực như lời nói chính cuả con người trong cuộc, mô tả cuộc sống hàng ngày, những tâm tư, tình cảm cuả họ.  Đơn giản, mộc mạc như ruộng đồng hay tâm thức cuả người lính trẻ.  Có thể những lúc như thế, người ta đã quên đi những điều nhọc nhằn, những nỗi chết tàn khốc đến không báo trước.

       Những dòng nhạc này không nghe ở trong phòng khiêu vũ, trong dạ tiệc, đình đám cuả đám quan quyền, chức tước, tuy sống nhờ chiến tranh, trên nỗi khổ đau cuả người khác, nhưng lại không muốn nhắc tới chiến tranh.  Người ta gọi nó chung chung là nhạc thời chinh chiến.  Có thẻ là thứ nhạc bình dân... nhưng nó đến thẳng lòng người, với đa số quần chúng đang tham gia, xa hay gần vào cuộc chiền.  Dó là nhạc cuả một thời chinh chiến trên quâ hương cuả Trần thiện Thanh, Duy Khánh, Nguyễn văn Đông, Lam Phương, Minh Kỳ, Song Ngọc, Trúc Phưong, Y Vân, Đỗ Lễ, Trịnh Lâm Ngân, Lê minh Bằng...   Phải kể thêm Trầm tử Thiêng, Phạm thế Mỹ...  và quá nhiều nhâc sĩ mà tôi không nhớ hết tên.  Họ đã viết nên những bài nhạc này với tất cả tấm lòng biết ơn với những người lính đang chiền đấu cho quê hương.

       Chúng ta cũng còn nhớ Phạm Duy đã viết về Phạm phú Quốc năm 1965, Trần thế Vinh năm 1972.  Trịnh công Sơn đã khóc Lưu kim Cương vào Tết Mậu Thân năm 1968, khi chiến tranh đã vào thành phố.  Nhưng sau năm 1972, từ một muà hè được mệnh danh là "Muà Hè đỏ lửa", với bao nhiêu người đã nằm xuống, nhạc Tràn thiện Thanh mới đưa chúng ta tới những cảm xúc dữ dội với máu, lửa, nước mắt, mộ bia, quả phụ, và khăn tang.  Những điạ danh Charlie, Delta, những cứ điểm A1, A2, hầu như xa lạ với người đời.  Nhưng qua nhạc Trần thiện Thanh, rừng núi, cỏ cây dường như đã sống dậy với tên cuả những người lính bất tử.

       Chiến tranh khốc liệt nổ ra khắp trên bốn vùng đất chiền thuật, thành phố đã thật gần với mặt trận, thì nhạc chinh chiến đã trở thành nhạc cuả đại chúng.  Trong thời điểm ấy, tình yêu, nếu có cũng là tình yêu trong chiến tranh, thưong nhớ, ly biệt, xót xa.  Viết về nỗi đau cuả chiến tranh là viết về nỗi đau lớn lao cuả con người, hậu quả cuả sự ngông cuồng cuả nhân loại.  Âm nhạc đã vượt qua biên giới, vượt qua lằn rănh cuả bên này bên kia, cuả cả bạn lẫn thù.  Những hình ảnh mất mát, què cụt, con côi, quả phụ... sau chiến tranh ở nơi nào và thời nào cũng có.

       Chiến tranh được viềt theo đơn đặt hàng cuả mỗi chế độ có vòng hoa chiến thắng, điệu kèn xung trận và những khải hoàn môn chỉ có thể sống những khoảng thời gian cố định.  Chiến tranh được viết nên bởi những người nghệ sĩ biết đau nỗi đau cuả nhân loại, trong thân phận nghiệt ngã cuả con người, bị lôi cuốn, nghiền nát trong chiến tranh, sẽ còn sống mãi cho tới khi nào thế giới mỗi ngày chưa ngưng tiếng súng, khi tham vọng con người vẫn còn, dù được nguỵ trang dưới một chiếc mặt nạ nào..

       Về phiá chúng ta, hơn ba mươi năm qua, cuộc chiến đã tàn, phần lớn những người viết nhạc đã không còn nưã.  Những người lính miền Nam đã bị định mệnh bức tử, bị đối xử tàn độc, nhưng những dòng nhạc này vẫn còn sống mãi với lòng người.  Người lính miến Nam cuả chúng ta quả là không chết, chỉ có thể phai nhạt dần đi.  Nhưng cứ mỗi lần ngày Ba Mươi Thánq Tư mỗi năm trở lại, hình ảnh người lính đó, với những trang sử hào hùng bỗng sống trở dậy trong lòng mỗi chúng ta.

       Trong bao nhiêu năm, người lính phải chống đỡ để giữ cho Miền Nam khỏi rơi vào bàn tay Cộng Sản.  Không hề bị lay chuyển bởi những hình ảnh mà người ta gọi là phản chiến "anh về bại tướng cụt chân,"  "anh trở về dang dở đời em," "anh lên lon mới giưã hai hàng nền chong," "tôi có người yêu chế trận Pleime, chết trận Đồn Xoài..."  Những người lính đã thi hành những lệnh lạc rất gần, từ cấp chỉ huy trực tiếp.  Mặc cho những mưu toan, đổi chác, thương thảo trong những căn phòng kín ở Mạc Tư Khoa, Hoa Thịnh Đốn, Bắc Kinh, hay trên bàn hội nghị .  Mặc cho những ai buôn xương bán máu đồng đội, mặc cho ai "công thành" trên "vạn cốt khô", người lính vẫn một lòng đi tới: "Khi đã dàn quân, người lính xem cái chềt như trở về nhà!"  Người lính không lạc quan là có thể sồng mãi giữa đạn bom, trong khi bạn bè đồng đội vẩn ngày đêm ngã xuống.  Nhưng họ vẫn không làm gì khác hơn là chấp nhận hoàn cảnh, không hèn nhát, không sợ hãi, không trách cứ ai.

       Đây là những người lính can đảm, thật thà, và trung tín.

       Ngày nay những "quốc gia nghiã tử" đã lớn lên thành người:những thưong binh què cụt còn mang nỗi uất hận mất mát và bị bỏ rơi; những quả phụ đã làm lại cuộc đời hay đã già nua, tàn tạ qua thời gian; xương cốt liệt sĩ trong mộ đã hoá thành đất cát.  Đó phải chăng là hậu quả cuả bất cứ một cuộc chiến tranh nào.

       Buổi chiều nay  nghe một khúc nhạc cũ nói về một người lính, tưởng như anh linh ai đó còn hiển hiện.  Nói như nhà văn Henri Henriot: "Tôi có một niềm tin sâu sắc rằng: Những người chết sống cho đến bao giờ, còn có những kẻ sống nghĩ đền họ."

      

 *Trích báo Người Việt ngày 7 tháng 5 năm 2006