Menu

LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ĐẤU

NHỮNG NĂM SAU (1968 – 1971)

Vũ Đình Hiếu


QUÂN LỰC VNCH TIẾP NHẬN LL/DSCĐ Nhiệm vụ chính yếu của liên đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ trong hai năm rưỡi cuối cùng là bàn giao hoàn toàn Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) cho QL/VNCH. Quan niệm về Việt Nam Hóa là trọng điểm chiến lược của quân đội Hoa Kỳ trong hai năm 1968, 1969 nên cũng không có gì mới lạ cho liên đoàn 5 LLĐB. Tuy nhiên LLĐB/VN vẫn chưa huấn luyện đầy đủ phần chuyên môn cho quân nhân LLĐB/VN, có lẽ vì sự tham chiến với những đơn vị cấp lớn của quân đội Hoa Kỳ, làm cho trận chiến có vẻ quy ước, trận điạ chiến hơn là một trận chiến tranh ngoại lệ.

Dầu thế nào chăng nữa, liên đoàn 5 LLĐB/HK đã ra lệnh, đẩy mạnh nhiệm vụ chiến đấu vào tay quân đội VNCH. LLĐB/HK chỉ có nhiệm vụ giúp đỡ miền nam chiến thắng. Kết qủa thắng hay bại nằm trong tay người Việt Nam mà một phần qua sự chiến đấu của sắc dân thiểu số, đồng bào Thượng đang phục vụ trong Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu.

Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến ngày họ trở về Hoa Kỳ. Trong khoảng thời gian chuyển tiếp này, họ vẫn xây dựng thêm các tiền đồn biên phòng mới và sửa sang, tu bổ những trại cũ để chuẩn bị bàn giao cho QL/VNCH.

Những kế hoạch chuyển giao LL/DSCĐ cho Việt Nam Cộng Hòa thực ra đã có từ đầu năm 1964. Tuy nhiên, tình hình chiến sự trở nên nặng nề hơn từ sau trận tấn công Tết Mậu Thân 1968, làm cho những đơn vị chính quy VNCH chưa thể đảm trách nhiệm vụ biên phòng cho đến năm 1970. Trong năm 1969, bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH và bộ tư lệnh Quân Viện (MACV) nhìn thấy sự phát triển và đồng ý rằng, QLVNCH đã có thể gánh vác trách nhiệm biên phòng, ngăn chặn đường tiếp tế, xâm nhập của Bắc Việt vào miền nam Việt Nam.

Mặc dầu các trại LLĐB nội điạ vẫn tiếp tục được chuyển giao cho QL/VNCH (Điạ Phương Quân) khi tình hình an ninh trong khu vực trách nhiệm của trại đã được bình định. Nhiệm vụ của LLĐB/HK thâu gọn lại. Đến năm 1970, chương trình Dân Sự Chiến Đấu có thể được coi như kết thúc. Một tiểu ban trong bộ tư lệnh Quân Viện (MACV) được triệu tập vào ngày 20 tháng Ba năm 1970 để tìm một giải pháp kết thúc chương trình Dân Sự Chiến Đấu một cách êm thắm.

Tiểu ban này khuyến cáo, tất cả các trại LLĐB (DSCĐ) còn lại phải được bàn giao cho QL/VNCH (binh chủng Biệt Động Quân) trong khoảng thời gian từ tháng Tám cho đến tháng Mười hai năm 1970. Vấn đề bàn giao các trại biên phòng này bao gồm việc đồng hóa các dân sự chiến đấu trở thành quân nhân trong QL/VNCH. Một hệ thống tiền đồn biên phòng do các tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng đảm trách được dựng lên để thay thế Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu. Binh chủng LLĐB/VN sẽ phụ giúp Biệt Động Quân trong việc cải tuyển nhân sự để các dân sự chiến đấu gia nhập quân đội VNCH. (sắc dân thiểu số, đồng bào Thượng không bị ràng buộc bởi luật động viên. Họ được tự do trở về với xóm làng, bản Thượng của họ nếu mốn). Cho tới giai đoạn cuối, LLĐB/VN cùng với quân Mũ Xanh LLĐB/HK khuyến khích, giải thích cho các dân sự chiến đấu về quyền lợi khi gia nhập QL/VNCH. Do đó đa số họ được chuyển qua Biệt Động Quân.

Năm 1970, cường độ chiến tranh có vẻ giảm xuống. QL/VNCH và Hoa Kỳ mở những cuộc hành quân qua đất Miên nhằm phá hủy các căn cứ điạ, hậu cần của địch. Đặc biệt trong vùng III chiến thuật, có sự tham dự của LL/DSCĐ và kết qủa áp lực của địch nơi các trại biên phòng giảm đi rất nhiều.

Cũng trong năm 1970, ngoài quân khu I, quân đội Bắc Việt và Việt Cộng vẫn tạo áp lực. Bộ chỉ huy C1 (đại đội C, liên đoàn 5 LLĐB/HK) ngoài Đà Nẵng vẫn chịu trách nhiệm về các hoạt động LLĐB ngoài vùng I và trại LLĐB Tiên Phước (A-102, TĐ77/BĐQ/BP) được chấm điểm là đơn vị xuất sắc nhất trong vùng chiến thuật năm 1970. Trong thời gian khoảng hai hoặc ba tháng, LL/DSCĐ Tiên Phước loại khỏi vòng chiến 50, 60 địch quân mỗi tháng mà chỉ bị tổn thất nhẹ.

Trong khoảng thời gian đó, một buổi sáng sớm, trại LLĐB Mai Lộc (A-101, đóng cửa không chuyển qua BĐQ/BP) bị đặc công của địch tấn công, lọt vào bên trong căn cứ phá hủy nhiều công sự phòng thủ trước khi bị LL/DSCĐ trú phòng đẩy lui. Ít lâu sau khi căn cứ Mai Lộc bị tấn công, trại LLĐB Thường Đức (A-109, TĐ79/BĐQ/BP) bị địch bao vây, pháo kích bằng súng cối. Quân đội Bắc Việt bao vây căn cứ 60 ngày nhưng sau đó phải rút lui, tiền đồn biên phòng đứng vững. Đến tháng Mười, địch quay trở lại tấn công nhưng bị đẩy lui để lại 74 xác chết. Trong thời gian một tuần lễ, quân đội Bắc Việt mở ba trận tấn công lớn nhưng không thành công với tổn thất 150 quân.

Năm 1970, trên vùng cao nguyên, thuộc quân đoàn II, địch quân thường bao vây các trại LLĐB. Các hoạt động LLĐB trong vùng II chiến thuật do bộ chỉ huy C2 (đại đội B, liên đoàn 5 LLĐB/HK) đảm trách. Trại LLĐB Bu Prang (A-236, TĐ89/BĐQ/BP) bị vây hãm 45 ngày cho đến cuối năm 1969 đã được sửa sang, tái thiết với các công sự phòng thủ hoàn toàn ngầm dưới mặt đất. Trại LLĐB Dak Seang (A-245, TĐ90/BĐQ/BP) bị bao vây kể từ 6 giờ 45 phút sáng ngày 1 tháng Tư năm 1970. Sau đó địch quân đã tỏ vẻ nhất quyết san bằng căn cứ Dak Seang, bộ

tư lệnh quân đoàn II vội vàng đưa Biệt Động Quân cùng với Lực Lượng Xung Kích Tiếp Ứng (Mobile Strike Force, Mike Force cũng thuộc LLĐB) lên đánh giải vây cho tiền đồn biên phòng này.

Biệt Động Quân cùng đơn vị tiếp ứng gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị chính quy Bắc Việt, trung đoàn 28, trung đoàn 66 và trung đoàn 40 Pháo Binh. Mười hai ngày sau khi tấn công căn cứ Dak Seang, địch quân chuyển hướng tấn công qua bao vậy trại LLĐB Dak Pek (A-242, TĐ88/BĐQ/BP). Địch chỉ pháo kích vào căn cứ và xử dụng đặc công và bị đẩy lui.

Cuộc hành quân qua Miên, QL/VNCH giải cứu và đưa về nhiều Việt kiều. Đó cũng là một vấn đề cho chính phủ VNCH. Một số làng được xây cất trong tỉnh Phước Long dành cho Việt kiều hồi hương vì tỉnh này đất đai trù phú lại ít dân cư. Những ngôi làng này được xây cất gần trại LLĐB Bu Prang và Đức Lập (A-239, TĐ96/BĐQ/BP). Các trại biên phòng và đơn vị LLĐB trong lãnh thổ quân khu III trực thuộc bộ chỉ huy C3 (đại đội A, liên đoàn 5 LLĐB/HK). Trong cuộc hành quân vượt biên, một số đại đội DSCĐ thuộc hai trại LLĐB Dức Huệ (A-325, TĐ83/BĐQ/BP) và Trà Cú (A-316, TĐ64/BĐQ/BP). Các đại đội DSCĐ này tấn công các căn cứ huấn luyện của địch bên Miên và khám phá nhiều kho vũ khí, quân dụng, hậu cần của địch trong tháng Năm, 1970.

Trước đó, vào đầu năm 1970, lực lượng Xung Kích Lưu Động (Mobile Strike Force) quân đoàn III đã gây tiếng vang, khám phá và tịch thu được một kho vũ khí lớn của địch. Lực lượng Xung Kích hành quân lục soát trong chiến khu D gần khu vực rừng Rang Rang, một căn cứ điạ kiên cố, chắc chắn của địch đã khám khá ra kho vũ khí đó, gồm 450 khẩu súng trường SKS, 1034 đạn súng cối 82 ly, 130 hỏa tiễn 122 ly và gần 200 tấn đạn dược đủ loại. Các trại LLĐB khác, Katum (A-375, TĐ84/BĐQ/BP), Tống Lê Chân (A-334, TĐ92/BĐQ/BP) và Bù Đốp (A-341, TĐ97/BĐQ/BP) bị địch quấy rối, pháo kích bằng súng cối thường xuyên. Nặng nhất là trại Katum, có ngày bị pháo kích hơn 300 quả đạn súng cối. Sau cuộc hành quân qua Miên, cũng như trên quân đoàn II, tình hình các trại LLĐB tạm yên.

Các trận đánh dưới vùng IV chiến thuật do LLĐB đảm trách, xử dụng những phương tiện do LLĐB phát triển thích hợp trong vùng đồng bằng Cửu Long có nhiều kênh rạch, sông ngòi. Đại đội xung kích thuộc bộ chỉ huy C4 (đại đội D, liên đoàn 5 LLĐB/HK) xử dụng những loại thuyền máy, thuyền bay trong các cuộc hành quân rất hiệu quả. Các trận chạm súng với địch thuờng xẩy ra trong khu vực Thất Sơn, khi đại đội xung kích kết hợp với các đơn vị xung kích thuộc hai trại LLĐB Ba Xoài (A-421, TĐ94/BĐQ/BP), Vĩnh Gia (A-149, TĐ93/BĐQ/BP) mở cuộc hành quân tảo thanh. Trại LLĐB Ba xoài và căn cứ Chi Lăng (toán B LLĐB) đều bị địch tấn công nhưng thất bại. Nói chung trên bốn vùng chiến thuật, vùng IV vẫn yên ổn nhất.

Các hoạt động dân sự vụ trong chương trình Dân Sự Chiến Đấu là một khiá cạnh rất quan trọng trong cuộc chiến. Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đã bọc lộ sự quyết tâm đối với người dân miền nam Việt nam.

Bảng tóm lược các hoạt động dân sự vụ do liên đoàn 5 LLĐB/HK đã thực hiện trong khoảng thời gian 1964 – 1970 cho biết, họ đã thực hiện 49902 chương trình trợ giúp kinh tế, 34334 chương trình giáo dục, 35468 chương trình phát triển đời sống, 10959 chương trình y tế, cung cấp 14934 phương tiện di chuyển, giúp đỡ 479568 người tỵ nạn, đào 6436 giếng nước, sửa chữa 1949 cây số đường xá, xây cất 129 nhà thờ, 272 cái chợ, 110 trạm xá khám bệnh, 398 hố chứa rác, xây 1003 lớp học, và 672 chiếc cầu.

Trên lãnh vực quân sự, danh từ “cuốn gói” được xử dụng để chấm dứt hay không còn khả năng sẵn sàng tác chiến (làm việc) nữa. Khi liên đoàn 5 LLĐB/HK nhận được lệnh “cuốn gói”, lúc đó họ đã sẵn sàng sau mười năm tham chiến tại Việt Nam.

Đến ngày 1 tháng Sáu năm 1970, chỉ còn lại 38 trại Dân Sự Chiến Đấu. Những trại nội điạ khác đã được chuyển giao cho Điạ Phương Quân hoặc đóng cửa. Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH và bộ tư lệnh Quân Viện (MACV) quyết định chuyển giao các trại biên phòng còn lại cho Biệt Động Quân với thời hạn chót phải hoàn tất là ngày 31 tháng Mười Hai năm 1970. Những trại LLĐB (DSCĐ) tương đối an ninh, dễ tiếp tế trong mùa mưa được chuyển giao trước, sau đó mới đến các trại nằm xa xôi, trong khu vực thường xuyên có các hoạt động của địch. Riêng trại Mai Lộc đóng cửa (bỏ) nên số còn lại chuyển qua BĐQ là 37 trại.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, liên đoàn 5 LLĐB/HK sẽ quay trở về Hoa Kỳ ngày 31 tháng Ba năm 1971 nên vẫn tiếp tục yểm trợ cho 37 trại biên phòng. Khi đã chuyển giao cho Biệt Động Quân, quân số của liên đoàn 5 LLĐB/HK giảm xuống, gây trở ngại rất lớn trong vấn đề yểm trợ tiếp vận cho các trại Biệt Động Quân Biên Phòng. Bộ chỉ huy BĐQ QL/VNCH không có đủ số cố vấn Hoa Kỳ cho các trại biên phòng vừa mới nhận lãnh. Để “gỡ” cho BĐQ, các toán A LLĐB/HK được lệnh để lại toán cố vấn 3 người trong các trại biên phòng cho đến khi các toán cố vấn BĐQ được đưa ra căn cứ.

Chương trình chuyển giao các trại DSCĐ cho Biệt Động Quân tiến hành rất êm xuôi. Một phần vì toán A LLĐB/VN ở lại trại, vị sĩ quan trưởng trại trở thành tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân. Ông ta đã am tường, quen thuộc với nếp sinh hoạt, điều hành căn cứ, vùng hành quân, khu vực trách nhiệm.

Dallas, Texas March 8th 2010