KHE-SANHVũ đình HiếuĐầu năm 1966, đại-sứ Hoa-Kỳ bên Ai-Lao William Sullivan, rộng-rãi thêm chút đỉnh, cho phép Đoàn Nghiên-Cứu, Quan-Sát (SOG) xử-dụng trực thăng để thả hoặc bốc các toán viễn-thám. Ông cũng đồng ý cho SOG hoạt-động dọc theo biện giới Lào-Việt trong vòng 20 cây-số trên đất Lào. Thêm phần trách nhiệm, đến giữa năm 1966 đơn-vị SOG tăng số toán viễn-thám lên đến hai mươi toán và thêm vài đại đội xung-kích tuyển mộ từ các bộ lạc sắc dân thiểu-số. Cũng trong thời gian này, SOG được trang bị súng tiểu liên CAR-15, nòng ngắn chỉ bằng nửa khẩu M-16 và báng xếp. (Quân lực VNCH lúc đó vẫn chưa được cấp phát súng M-16. Phải đợi đến sau trận Tết Mậu-Thân). Những toán viễn-thám cuả SOG là những đơn vị duy nhất trang bị súng CAR-15. Tuỳ theo nhiệm vụ, quyết định cuả toán trưởng, họ được đem theo tất cả mọi thứ vũ khí trên thế giới, tiểu liên Uzi cuả Do-Thái, K-9 Thụy-Sĩ, kể cả vũ khí trong khối cộng-sản AK-47, B-40. Muà hè 1966, SOG bắt đầu nhiệm-vụ mới, kiểm-chứng trận dội bom (Bomb Damage Assessment). Các toán viễn thám sẽ được thả xuống khu vực vừa mới bị phi tuần B-52 thả bom. Điều này chưa từng thực hiện trong trận Thế-Chiến thứ hai cũng như trong chiến tranh Triều-Tiên. Toán viễn thám xâm nhập vào vùng có hàng ngàn địch quân trang bị đầy đủ và đang căm phẫn vừa mới bị đánh bom. Qua sự kiểm chứng cũng như không ảnh do phi cơ U-2 chụp, ngành tình báo có thể biết được các hoạt động cuả quân Bắc Việt trên đường mòn Hồ-Chí-Minh. Đến giữa năm 1966, SOG nổi tiếng trong ngành tình báo là họ có thể đến bất cứ nơi nào và dám làm nhiều chuyện. Tháng bẩy 1966, hành-quân Shining Brass đã xâm nhập vùng hoạt động cuả địch trên đất Lào 48 lần, thiệt hại rất nhẹ, một chết, tám bị thương (Hoa-Kỳ). Muà hè năm đó, SOG di chuyển các toán viễn thám đến căn cứ Khe-Sanh dò thám vùng phi-quân-sự dài 14 dặm chia đôi Bắc và Nam Việt-Nam cũng như về hướng tây trên đường số 9 qua đất Lào đến Tchepone, nơi quân Bắc Việt đóng quân, làm đường. SOG đưa các toán viễn thám xâm nhập từ một trại LLĐB nhỏ nằm bên cạnh phi đạo. Một trong những khám phá mới là ‘Khe núi xe đạp’, thung lũng hẹp nơi quân Bắc Việt chất đồ lên xe đạp trước khi lên đường xuôi nam, mỗi chiếc có thể tải trên 200 kí-lô lương thực, vũ-khí, quân dụng. Dân công đẩy xe từ trạm này qua trạm nọ rồi đạp xe không về tải chuyến khác. Xe vận tải của địch di chuyển rất nhộn nhịp nơi hướng tây vùng phi-quân-sự, từng đoàn xe chạy hằng đêm trừ khi bị ném bom, lúc đó các xe ủi đất công binh và dân công ra lấp hố bom, dọn dẹp chướng ngại vật rất nhanh chóng. Quân Bắc Việt xuôi nam rất tự-túc, họ đi bộ mang theo ít đồ ăn khi rời miền Bắc. Họ đóng quân dọc theo đường mòn Hồ-Chí-Minh, săn bắn, trồng trọt để có thêm thực phẩm phụ trội. Những nơi biệt kích khám phá ra, đều phải công nhận địch quân ngụy trang rất khéo và cẩn thận, hầu hết hệ thống đường mòn, binh trạm, kho tiếp vận, bãi chứa xe đều không thấy trên không ảnh, chỉ có những toán quân biệt-kích mới tìm ra, nhờ xâm nhập trên bộ vào sâu trong lòng địch. Tại Khe-Sanh, các toán viễn thám tin tưởng nơi hai phi công tài ba, can đảm thuộc phi-đoàn 219 KL/VNCH có biệt danh Cowboy và Mustachio. Hai tay này dám vào bốc các biệt-kích quân đang bị vây, bất chấp hoả lực của địch cũng như thời tiết xấu. Mustachio bay một phi vụ đáng ghi nhớ trong một đêm giữa năm 1966, một toán viễn thám bị tấn công tại điểm đóng quân đêm, chạy thoát nhưng phải đem theo mấy đồng đội bị thương, có lẽ sẽ không thoát trước khi trời sáng Phi công trực thăng Mỹ-Việt đều lắc đầu không dám bay trong màn đêm, ngoại trừ Mustachio tình nguyện bay. Chuyến ra đi gần như vào cõi chết, nên Mustachio đi một mình, không đem theo phi công phụ cũng như xạ thủ đại liên. ‘Tôi không biết làm sao Mustachio đem họ (biệt-kích quân) ra được.’ Scotty Crerar nói ‘Chiếc trực thăng bay về với 88 lỗ đạn và viên phi công bị bắn mất ngón tay cái’. Buồn thay, vài tuần sau Mustachio trong một chuyến chở toán Nevada về Kontum, khi chiếc trực thăng bay gần Khâm-Đức, đuôi máy bay rớt ra đập vào thân tầu làm văng các toán viên cùng phi hành đoàn ra giữa trời, tất cả đều thiệt mạng. Ngoài Mustachio cùng phi hành đoàn, toán viễn-thám Nevada gồm Thượng-sĩ Ralph Reno, Trung-sĩ Donald Fawcett, các biệt-kích Nùng, thêm sĩ-quan hành-quân Đại-Úy Edwin MacNamara. Các toán viễn thám vào đem được xác các quân nhân bị tử nạn về trừ ra xác Reno. Ba tuần sau, một toán viễn thám xâm nhập khu vực hướng tây Khe-Sanh, sang ngày thứ ba toán trên đường xuống núi Cơ-Rốc đến một con suối lớn để lấy nước uống. Trung-sĩ nhất Whalen cùng Sain canh chừng cho Trung-sĩ Laws, hai biệt-kích Nùng xuống suối lấy nước trước. Khi Whalen đinh báo động, Sain trúng đạn AK vào mặt, không kịp bắn trả đủa, đạn AK nổ vang trời, Whalen nhào xuống suối, Hai biệt-kích Nùng cùng với Laws nhẩy luôn xuống, bơi theo giòng nước. Quân Bắc Việt ở đâu tràn ra rất đông cũng nhào xuống suối, vừa bắn vừa đuổi theo làm Whalen phải bơi ngược giòng, không nhập vào với Laws cùng hai người Nùng. Được một quãng, có chùm cây chìa ra bờ suối, Whalen hít vào một hơi dài rồi lặn chui vào trong nằm im. Quân Bắc Việt lục soát một hồi, tìm không ra rồi bỏ đi, Whalen vẫn chưa dám xử dụng máy truyền tin báo nguy vì địch vẫn quanh quẩn đâu đây. Đợi đến khi trời tối, Whalen mới ra khỏi chỗ trú ẩn và được trực thăng cứu thoát, anh ta là người duy nhất trong toán viễn thám sống sót. Hai ngày sau, SOG cho một toán viễn thám khác vào lấy xác. Đúng theo lời báo cáo của Whalen, đem về được xác của Sain. Laws cùng hai biệt-kích Nùng mất tích không tìm ra xác. Thân nhân của họ cũng không được cho biết chính xác về cái chết của họ ‘Mất tích trong một chuyến đi trinh sát ở nam Việt-Nam’. Trong mùa thu 1966, Trung Tướng Lewis W. Walt tư-lệnh Lực-Lượng Đệ Tam Thủy Bộ yêu cầu SOG thám sát khu vực gần khu phi-quân-sự. Trong hành quân Hastings, TQLC/HK đẩy lui hai sư đoàn Bắc Việt về vùng phi-quân-sự, chiếm hai vị trí quan trọng Cồn-Thiên và dẫy đồi Rockpile. Hai vị trí chiến lược này liên tục ăn đạn pháo binh của địch dấu trong vùng phi-quân-sự.. Không biết hai sư đoàn của địch di chuyển đi đâu, thêm vài dấu hiệu chứng tỏ quân Bắc Việt định tấn công hai tỉnh cực bắc của VNCH. Địch quân đi đâu? Tăng viện? Pháo binh dấu nơi đâu? Tướng Walt muốn biết những điều đó. Khi những toán viễn thám SOG chuẩn bị hành trang, ba-lô đi lên hướng bắc làm việc cho TQLC, họ đem theo dụng-cụ nghe lén đường dây điện-thoại. Năm trước đó, SOG khám phá hơn chục đường dây điện thoại của địch dọc theo đường mòn. Ban tham mưu của tướng Walt chấm 17 mục tiêu trong khu vực phi-quân-sự và dọc theo biên giới Lào-Việt cho các toán viễn thám SOG. Ba toán đầu tiên vào vùng gắn máy nghe lén, chưa được ba ngày, hai toán phải chạy lấy thân. Ba toán kế tiếp vào được hơn hai ngày chạm địch, chạy thoát đem về một tù binh. Ngày 28 tháng chín, toán viễn thám đụng một đơn vị đich cấp đại đội gần Khe-Sanh, toán bị phân tán. Trung sĩ Danny Taylor cùng hai biệt-kích Nùng mất tích. Năm hôm sau, toán Colorado và Arizona được trực thăng TQLC đưa vào khu vực gần Khe-Sanh. Toán Colorado xâm nhập trước, nơi bắc bờ sông Bến-Hải, phiá tây vùng phi-quân-sự. Trực thăng quay về đưa toán Arizona vào vùng xâm nhập. Khi chiếc CH-46 thả xong toán Arizona vừa bay lên, địch khai hỏa tứ phiá xung quanh bãi đáp. Toán Arizona xuống đúng nơi đóng quân của địch. Cách đó 15 dặm, toán Colorado nghe rõ tiếng kêu cứu của toán Arizona ‘Đến đem tụi tôi ra! Bạn phải đến đem tụi tôi ra!’. Mặc dầu có không yểm bắn xung quanh bãi đáp, súng của địch vẫn nổ, không cho toán Arizona ngóc đầu dậy. Cuối cùng tiếng của hiệu thính viên trong toán Arizona, Echevarria rất bình tĩnh anh nói ‘Thôi hết! Bạn hiền!’ rồi tiếp ‘Đừng đến nữa! Chấm dứt’. Lần đầu tiên, nguyên một toán bị mất, bị nuốt sống! Trong số bẩy trực thăng đến giải cứu toán Arizona, sáu chiếc cùng một khu trục A-1 Skyraider trúng đạn, may không chiếc nào bị rớt. Trong khi đó toán Colorado rất thành công, khám phá ra nhiều căn cứ của quân Bắc Việt, họ gắn được máy nghe lén và đem về được 7 cuốn băng cassettes ghi âm những cuộc điện đàm trong quân đội Bắc Việt. Những máy nghe lén điện thoại do các toán viễn thám SOG đặt, trong lòng địch đã đem lại những nguồn tin tình báo rất có giá trị. Theo tài liệu trong cuốn SOG, tác giả John L. Plaster Carrollton, 11-01-2000 |