Menu

HÀNH QUÂN RAPID FIRE I

David C. Spencer


Chương trình Rapid Fire do B-36 Lực Lượng Đặc Biệt đề xướng, bắt đầu với hành quân Rapid Fire I, kể từ ngày 5 tháng Chín năm 1967. Chúng tôi đã cho xâm nhập vào vùng hành quân dò thám, bắt tù binh bằng các toán biệt kích sáu người, trung đội xung kích Hatchet hai mươi người. Thành phần tham dự hành quân gồm các toán A LLĐB, A-361 và A-362 và các toán viễn thám thuộc sư đoàn 1/HK, sư đoàn 9/HK, sư đoàn 25/HK, trung đoàn 11 Kỵ Binh/HK, lữ đoàn nhẹ 199/HK và lính đánh thuê người Miên, làm việc cho LLĐB/HK.

Mặc dầu đến từ nhiều đơn vị khác nhau, nhưng tất cả đều là các đơn vị Lục Quân Hoa Kỳ nên sự chỉ huy thống nhất, dưới quyền Quân Đoàn II/HK. Quân đoàn này hoạt động trong vùng trách nhiệm của Quân Đoàn III/VNCH.

Một trong những đơn vị bộ binh Hoa Kỳ, sư đoàn 25 gửi một yêu cầu đến B-36 LLĐB cho một toán biệt kích vào do thám khu vực “I-99”. Khu vực này có điạ thế cao hơn sông Saigon, và mới đây VC đã pháo kích hỏa tiễn 140 ly vào căn cứ của sư đoàn 25 BB/HK ở Tây Ninh. Vị sĩ quan trưởng phòng 2 sư đoàn tin rằng, địch đã đặt dàn phóng trong khu vực đó. Do đó họ yêu cầu cho một toán biệt kích vào tìm kiếm dấu vết của địch.

Đây là một cuộc hành quân cấp bách, đôi khi không có một lý do vững chắc. Nhiệm vụ này đươc trao phó cho trung sĩ Dallas Pridemore, và anh ta chọn những quân nhân có kinh nghiệm để lập toán biệt kích. Pridemore mời tôi vào trung tâm hành quân họp hôm 14 tháng Chín. Như thường lệ, nơi này lúc nào bận rộn người ra vào như tổ ong. Pridemore nói “Tôi cần một toán phó cho một cuộc thám sát, và tôi nghe nói anh là người có khả năng”.

Tôi cũng không buồn hỏi lại ai nói cho anh ta biết về tôi, anh ta muốn làm tôi dễ chịu. Trước đó tôi đã làm toán phó cho một trung đội Hatchet dưới quyền chỉ huy của Frank Polk và có lần giao tranh ác liệt với VC khi chúng phản công chống lại trận phục kích của trung đội Hatchet. Một lần khác chúng tôi bị hỏa lực địch đàn áp khi tấn công một căn cứ của chúng. Nhưng sau đó trung sĩ Frank Polk bị thương còn tôi muốn tìm một chỗ “im lặng” hơn nên xin vào những toán thám kích.

Trung sĩ Pridemore tiếp tục nói “Toán biệt kích gồm có: Wesson, Miller, và hai biệt kích người Miên, một người tên Song, người kia tên là... “Old Man”. Tôi đã biết họ khi cùng phục vụ trong trung đội Hatchet, Wesson là một người lính trẻ, nhiều kinh nghiệm đời, mới mười chín mà cứ như đàn ông ba mươi tuổi. Miller còn nhỏ hơn Wesson một tuổi, dễ thương vẫn còn vị thành niên. Hai biệt kích Miên là những người chiến đấu giỏi và rất trung thành. Tôi trả lời Pridemore.

- Đồng ý.

- Tốt. Bây giờ phụ tôi chấm mấy tọa độ pháo binh (hỏa tập tiên liệu).

Nói xong, Pridemore với tay lấy tấm bản đồ. Tọa độ pháo binh, là những mục tiêu chúng tôi chấm sẵn để bắn pháo binh. Nhờ vậy sự yểm trợ sẽ nhanh chóng mà không cần phải điều chỉnh tác xạ. Sau khi nghiên cứu bản đồ hành quân, chúng tôi chọn những chỗ như giao điểm của hai con đường mòn, nơi giòng suối uốn cong thành hình vòng tròn và giao điểm hai trục trên bản đồ.

- Mình gặp nhau tại bãi đáp trực thăng lúc hai giờ chiều để bay thám sát.

Pridemore nói rồi bước ra khỏi trung tâm hành quân. Đối với anh ta làm việc nhanh, gọn, chuyện tâm sự để khi sau khi hành quân về sẽ tính.

Chuyến bay thám sát bao vùng chiến khu D là việc thường xuyên, nhưng lần này khu vực “làm việc” của chúng tôi quá rậm rạp, rừng cây bao phủ âm u, chỉ có một bãi đáp nhỏ cho trực thăng. Điều này nguy hiểm, bọn VC có thể đặt người quan sát canh chừng bãi đáp khi toán biệt kích xâm nhập, và cho người theo dõi từng bước.

Khi trở về, đi ngang qua hội quán trông thấy Wesson và Miller đang uống bia.

- Đừng vui quá độ, mình sẽ lên đường lúc rạng động

- Chúng tôi biết điều đó. Bọ tôi tình nguyện vì biết trong toán biệt kích có anh.

Tôi chỉ dặn dò sơ sơ Wesson, rồi đi tìm trung sĩ nhất Pridemore bàn thêm về chuyến xâm nhập sắp tới. Khu vực chúng tôi sắp thám sát, người Việt Nam gọi là “Khu Duc”. Sư đoàn 25 BB/HK đã cho các toán viễn thám vào nhiều lần nhưng chẳng tìm được dấu vết gì của địch. Do đó họ mới cần đến chúng tôi. Sau khi hai chúng tôi đã đi sâu vào chi tiết các hoạt động trong vùng địch. Tôi trở về sửa soạn ba lô, dụng cụ của mình sau đó kiểm soát ba lô, hành trang đem theo của hai biệt kích người Miên. Tôi cảm thấy thoải mái khi đã kiểm soát xong cho ba người, đi tìm “hai ông tướng” Wesson và Miller. Cả hai quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ đang ngồi ăn trong nhà ăn của Không Quân. Khi ăn xong bữa tối, chúng tôi về đến dẫy nhà của họ, kiểm soát hành trang, ba lô của hai người và khuyến cáo phải sẵn sàng để lên đường sớm buổi sáng mai.

Trời hơi lạnh trong buổi sáng sớm nơi bãi đáp trực thăng. Pridemore cho chúng tôi thử lại hành trang bằng cách, đeo ba lô nhẩy lên, nhẩy xuống. Anh ta không muốn nghe tiếng động, và kiểm soát lại điạ bàn, bản đồ, vũ khí, đạn dược mang theo lần cuối. Sau đó cất mũ rộng vành (nón bo, quân biệt kích không đội nón sắt. Họ trang bị nhe, di chuyển nhanh và không được gây tiếng động) vào trong túi, lên trực thăng, bay lên hướng bắc.

Viên phi công ra dấu hiệu báo cho trung sĩ nhất Pridemore biết đã gần đến bãi đáp. Từ trên không nhìn xuống, bãi đáp hiện ra rất rõ. Làn sương sớm che phủ đã bị ánh mặt trời làm tan đi. Người xạ thủ khẩu đại liên M-60 gắn trên trực thăng, hồi hộp mở to mắt ra nhìn xuống quan sát, ngón tay sẵn sàng bóp cò súng. Những quân nhân biệt kích không một người nào đùa giỡn.

Chiếc trực thăng đáp nhanh xuống bãi cỏ tranh, không có cây cao, toán biệt kích nhẩy ra chạy nhanh vào bià rừng ẩn núp. Chiếc trực thăng bay lên thật nhanh cũng như khi đáp xuống, để lại toán biệt kích “cô đơn” trong vùng địch kiểm soát.

Chúng tôi quan sát, nghe ngóng xung quanh khu rừng cho đến khi cảm thấy an toàn mới bắt đầu di chuyển. Cuối cùng, Pridemore báo về trung tâm hành quân cho biết toán biệt kích đã xuống bãi đáp an toàn, không chạm địch. Một người lính Miên biệt danh “Big Cowboy” cùng với Miller đi đầu. Tiếp theo là trưởng toán Pridemore, người lính Miên “Old Man” mang máy truyền tin, Wesson cùng với tôi đi sau làm hậu vệ. Toán biệt kích lặng lẽ di chuyển, vừa đi vừa quan sát, nghe ngóng, để ý những dấu hiệu của địch.

Đi được khoảng bẩy mươi thước, “Big Cowboy”, “Old Man” hai người lính Miên ra hiệu nằm xuống. Chúng tôi dừng lại trong thế thủ, nghe ngóng động tĩnh. Hai người lính Miên làm cho mọi người có cảm giác, khu vực có mặt địch quân.

Chỉ vài giây sau, hai người đàn ông xuất hiện nơi hướng bãi đáp trực thăng, di chuyển theo hình chữ Z qua lại đằng sau lộ trình toán biệt kích vừa đi qua. Họ chỉ còn cách chúng tôi khoảng năm mươi thước, di chuyển nhanh chóng, gần như đã có mục đích gì đó. Toán biệt kích năm im, theo dõi cho đến khi cả hai biến mất.

Toán biệt kích từ từ đứng dậy, rồi tiếp tục di chuyển, người biệt kích Miên “Old Man” quay lại nói khẽ với tôi “VC”. Chúng tôi đi thêm khoảng hai tiếng đồng hồ, lúc đó “Old Man” ra dấu cho mọi người biết toán biệt kích vẫn còn bị theo dõi bởi một tên địch. Tôi thích thú, làm sao anh ta biết, nhưng có linh cảm địch quân lẩn vẩn quanh đây. Chúng tôi tạm dừng chân, bàn gấp tìm cách đối phó. Mọi người đồng ý, để tôi ở lại xem thử tên địch có đi theo toán biệt kích và sẽ “đụng” nhằm tôi không.

Tôi nằm lại trong một bụi cây bên cạnh lộ trình di chuyển của toán biệt kích và chờ đợi. Mươi lăm phút sau vẫn không thấy bóng dáng tên VC, tôi bỏ chừng cuộc “phục kích” đi theo toán biệt kích. Cả nhóm mừng rỡ khi trông thấy tôi.

Người Miên “Old Man” vẫn cho rằng, tên VC có nhiệm vụ canh chừng bãi đáp vẫn còn đó và tôi tin anh ta. Mặc dầu tôi chưa trông thấy tên VC, nhưng chắc anh ta đã cảnh giác, dừng lại ở đâu đó. Chúng tôi tạm nghỉ một chút và cũng để tên VC tìm đến kiếm ăn.

Chúng tôi tiếp tục di chuyển, qua lại những khu vực không có những con đường mòn cắt ngang, mà rất thường thấy trong chiến khu D. Khu vực chúng tôi có nhiệm vụ thám sát không có dấu hiệu hoạt động nào của địch, mặc dầu vẫn biết rằng, không phải chỉ có toán biệt kích đang hiện diện trong khu vực.

Đến giữa trưa, toán biệt kích di chuyển đến một giòng suối lớn, rộng khoảng năm mươi bộ (feet), có bờ đất cao hai bên. Ngay hai bên bờ có những bụi tre rậm rạp, có cành rũ xuống suối. Theo lệnh hành quân, chúng tôi phải lục soát một khu vực với góc độ 130, và ngọn suối nằm trên trục di chuyển của toán biệt kích, phải băng qua. Toán bố trí bên này bờ suối làm thành phần an ninh cho Miller và “Big Cowboy” băng qua bên kia bờ suối.

Trưởng toán Pridemore cùng với “Old Man” đi tiếp theo, tôi canh chừng phiá sau, còn Wesson để ý hai bên bờ suối. Sau khi bốn người đã qua được bên kia bờ suối an toàn, Pridemore ra thủ hiệu cho tôi cùng với Wesson băng qua. Tôi quay lại nhìn Wesson, anh ta gật đầu ra dấu cho tôi qua trước.

Tôi từ từ bước xuống giòng suối, nước lạnh như có đá, vừa bước vừa phải tránh những cành tre đã rơi xuống, ngầm dưới mặt nước. Quay lại, tôi trông thấy Wesson cũng vừa bước xuống suối và dường như đang luống cuống, chân bị mắc kẹt giữa đám thân tre. Tôi quay lại đưa tay cho anh ta nắm rồi kéo về hướng mình.

Cả toán gom lại bên kia bờ suối, trưởng toán Pridemore ra lệnh cho Wesson đi bên phải lộ trình di chuyển, nơi giòng suối uốn quanh và biến mất khỏi tầm mắt. “Big Cowboy” vẫn đi đầu, Miller thủ bên trái. Trong khi đợi Pridemore báo cáo về trung tâm hành quân, tôi vẫn để ý phiá đuôi, bờ suối bên kia, nơi chúng tôi vừa từ đó băng qua suối. “Old Man” cũng đứng nhìn về phiá sau như tôi.

Sau khi báo cáo, liên lạc xong, Pridemore ra dấu hiệu cho mọi người bố trí ăn trưa. Tôi lôi phần ăn khô đặc biệt cho các toán biệt kích ra, đổ nước vào. Trong khi chờ cho đồ ăn nở ra, tôi vẫn để ý quan sát bờ suối bên kia. Người lính biệt kích Miên “Old Man” ra dấu hiệu cho tôi ngồi lui vào sau một thân cây.

Cả toán biệt kích bận rộn ăn bữa trưa, tôi chỉ ăn một miếng bánh kem. Mọi người vừa ăn vừa phải quan sát, canh gác, ngoại trừ “Old Man” vẫn dán mắt vào phiá bên kia giòng suối. Một người có kinh nghiệm chiến trường, thường có giác quan bén nhậy, linh tính rất tốt.

Khi mọi người sắp ăn xong, chợt mắt “Old Man” mở to ra, anh ta nhẩy qua gốc cây tôi đang ngồi, chửi thề bằng tiếng Miên, bắn ra một loạt súng. Cùng lúc đạn từ phiá bên kia bờ suối bay qua trúng vào thân cây nghe lốp bốp. Tôi chụp khẩu M-16, lúc đó mới biết, khóa an toàn bị kẹt, phải dùng một băng đạn khác gõ vào chốt an toàn.

Pridemore cùng với “Big Cowboy” bắt đầu bắn xuống bờ suối nơi mấy bụi tre. Anh ta gọi lớn “Old Man” đem máy truyền tin đến chỗ anh ta. “Old Man” nhanh nhẹn đem máy truyền tin lại, đưa ống nói cho Pridemore. cả hai nằm dài trên mặt đất. Miller cùng với “Big Cowboy” vẫn tiếp tục bắn vào mấy bụi tre, Wesson cũng nhả đạn qua phiá bên kia suối.

Mấy viên đạn trúng vào thân cây tôi đang nấp. Tôi lăn mình qua gốc cây bên cạnh, quan sát xạ trường, “Old Man” cũng bắn trả đũa về hướng lộ trình chúng tôi vừa đi qua. Nhìn qua bên kia bờ suối, tôi trông thấy mấy bóng người đang chạy về hướng tây dọc theo giòng suối.

Trưởng toán biệt kích Pridemore vỗ vào lưng tôi, nói.

- Mình sẽ được trực thăng tới “bốc” bằng dây cấp cứu Maguire (vì khu vực rậm rạp, đang chạm địch, không thể di chuyển đến bãi trực thăng được). Anh đi trước.

- Để cho Wesson và Miller đi trước. Tôi trả lời.

Pridemore lắc đầu, ra lệnh.

- Không. Anh và Wesson đi trước.

Tôi gật đầu đồng ý. Khi nghe tiếng trực thăng trên đầu, Pride more la lên.

- Ném quả khói mầu.

Viên phi công cấp cứu bay trên đầu nhận ra làn khói mầu vàng, bay lại thả dây Maguire xuống. Tôi la lớn gọi “Wesson”. Anh ta ngưng bắn, chạy lại ngồi vào sợi dây. Tôi chạy lại, ngồi vào sợi dây bên kia, trong khi bốn người còn lại bắn cầm chân không cho địch tiến lên.

Bất ngờ, sợi dây vướng vào một cành cây, trong khi đó địch quân bắn lên chiếc trực thăng làm cho chuyên viên “câu người” Wal handwerk trên trực thăng phải chặt dây để cho chiếc trực thăng bay đi. Hai đứa tôi rơi xuống đất. Hú viá, tôi la lớn.

- Chuyện gì vậy?

- Mình phải di chuyển đến bãi đáp.

Trưởng toán biệt kích Pridemore trả lời, chỉ tay về hướng tây nam, rồi ra lệnh cho tôi lên đi đầu, dẫn đường cho toán di chuyển đến một bãi đáp trực thăng khác. Tôi mở nắp điạ bàn, định hướng, rồi đi xuống suối nơi giòng suối uốn khúc quanh, rẽ qua một hướng khác.

Khi bước xuống giòng suối, Wesson đứng ngay bên bờ, Pridemore, “Old Man” theo sau, và Miller cùng với “Big Cowboy” đi sau làm hậu vệ. Bỗng nhiên có một lực gì đẩy mạnh tôi về phiá bờ. Nước bắn lên tung toé, khi tôi ngã chìm xuống nước. Gượng dậy để đi tiếp qua bên kia, lúc đó tôi mới trông thấy lửa loé ra từ những đầu mũi súng. Theo bản năng tôi bóp cò khẩu M-16 bắn trả lại.

Trên bờ, Wesson và Pridemore xả súng bắn vào bụi tre lớn phiá bên kia bờ, rồi tôi nghe tiếng thân người rơi xuống giòng suối. Tôi vẫn tiếp tục lội bì bõm qua phiá bên kia, rồi bám cây leo lên bờ dốc đứng, có bụi tre lớn che chở. Trước mặt là một khoảng tranh lớn, trực thăng có thể đáp. Phần còn lại của toán biệt kích lội qua sau và cũng đang leo lên.

Chúng tôi quăng quả khói mầu vàng nơi khoảng đất trống làm dấu cho trực thăng, rồi chạy ra khi trực thăng đến bốc. Địch quân không dám tấn công vì có thêm hai chiếc trực thăng võ trang Cobra đang bay vòng vòng trên bãi đáp.

Trở về đến căn cứ, phần thuyết trình của toán biệt kích rất ngắn, vì chúng tôi không tìm ra vị trí đặt hỏa tiễn pháo kích của địch. Tôi nhìn xuống chân, người y tá Miên đang lau chùi vết thương, lấy một miếng kim loại ra. Sau chuyến đi đó tôi được nghỉ gần tám tháng, miếng kim loại tôi vẫn giữ làm kỷ niệm.

 

Theo tài liệu: David C. Spencer, “Rapid Fire I”, Behind The Line magazine, 1996, page: 32-36

Dallas, TX. March 19, 2010

vdh