Menu

Phần 1

Cuối Đường

Hồi Ký cuả Vương Mộng Long, Khóa 20


"Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.             
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!"           

(Vương mộng Long)    

                       

       Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số.  Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1.  Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt.  Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi.  Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn.  Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng.  Tần số nào cũng rối loạn.  Tôi không bắt liên lạc được với ai.  Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:

       - "Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!"

       Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô".  Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ.  Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ.  Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ.  Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư.  Trung úy Đăng mất tích.  Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng.  Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua.  Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. 

       Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn.  Giờ này họ đã quay trở lại.  Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài.  Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội.  Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu.  Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa.  Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân.  Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn.  Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên.  Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre.  Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang.  Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này.  Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.

       Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975.  Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường.  Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức.  Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau.  Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng.  Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em".  Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót.  Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:

       - "Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?"

       -"Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?"

       Chua xót thay!  Tôi không mơ.  Tôi đang sống với thực tế phũ phàng.  Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:

       - "Thiếu tá ơi!  Sao lại thế này?  Thiếu tá ơi!  Hu...hu ...hu..."

Vào Nơi Lưả Đạn        Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ.  Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...

       Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới.  Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng.  Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ.  Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét.  Cảnh này quen thuộc lắm.  Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này.  Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau.  Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí.  Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động.  Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ.  Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được.  Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu?  Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả?  Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi.  Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ?  Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ?  Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng.  Đầu hàng?  Đầu hàng cách nào?  Đầu hàng ở đâu?  Đầu hàng với ai?  Giữa đồng không, tôi đứng chết trân.  Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau.  Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.

       Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần.  Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây.  Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau.  Tiếng loa vang vang,

       - "Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!"

       - "Hoan hô!...Hoan hô!"

       Thùng... thùng...  Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng...  Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió.  Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.

       - "Đù má tụi mi!  Tụi mi chọc giận ông phải không?"  Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân.  Chỉ là bắn dọa.  Đạn bay cao.  Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn.  Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường.  Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.

       - "Thôi!  Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

       - "Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?"  Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.

       - "Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ."  Tôi trả lời Thủy.  Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu!  Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.

       - "Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô".  Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

       - "Hoan hô!  Hoan hô cái mả cha tụi mi!"  Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.

       - "Cành!  Cành!  Cành... cành... cành!  Cành!"  Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau.  Vẫn chỉ là bắn dọa.  Đạn bay cao.  Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn.  Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường.  Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết.  Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn.  Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt.  Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng?  Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi:

       - "Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!"

       Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:

       - "Thái Sơn!  Đây Hai Lẻ Bảy!  Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán.  Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!"

       Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

       Nghe ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy.  Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740.  Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc.  Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa.  Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông.  Họ quen gọi tôi là "Anh Hai".  Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó.  Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó.  Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha.  Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại-Huynh" chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này.  Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía...  Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu?  Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp.  Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi.  Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên.  Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,

       - "Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?"

       - "Phải rồi! 82 đây!"

       - "Lên xe đi!  Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!"

       - "Có ai ở đó không?"

       - "Đông lắm!  Có lẽ các ông là những người tới sau cùng"

       Xe trở đầu, chúng tôi lên xe.  Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu.  Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. T hành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm.  Ông tài xế xe be, cười rất tươi,

       - "Hòa bình rồi!  Hòa bình rồi!  Hết đánh nhau rồi các anh ơi!"

       Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp.  Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

       Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ.  Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại.  Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu.  Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi.  Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,

       - "Bắn!  Bắn!...  Không cho đứa nào chạy thoát!"

       Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên.  Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống.  "Hòa bình" rồi.  Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?

       - "Choác! Choác! ....Choác!"

Gian Lao        Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ.  Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên.  Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi.  Ông tài xế gục trên vô lăng.  Thùng nước xe bể, hơi nước phun "phì...phì..." che kín đầu xe.  Tôi phóng nhanh xuống đường.  Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe.  Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích.  Viên đạn trật mục tiêu.  Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường.  Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được.  Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,

       - "Đưa tao!"

       Tôi kéo cơ bẩm.  Đạn tuôn ra khỏi nòng.  Tên du kích giãy giụa trên vũng máu.  Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích.  Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be.  "Oành!".  Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi.  Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình.  Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu.  Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ.  Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường.  Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16.  Ngón tay tôi tiếp tục siết cò.  Địch đông lắm.  Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo.  Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên.  Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này.  Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công.  Thôi, đành liều mạng!  Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả.  Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.

       Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe.  Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ.  Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết.  Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch.  Hầu như ai cũng lo bóp cò.  Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu.  Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16.  Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không.  Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh.  Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác.  Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành!  Cành!..."  - "Choác!  Choác! ... "  - "Xoẹt!  Xoẹt!..."  - "Oành!  Oành!.."   Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra.  Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.

       - "Cành! Cành! Cành!..."  Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,

       - "Đù má tụi mi ! Chết cùng chết!  Ông chết!  Tụi mi cũng chết!"

       Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt.  Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau.  Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp.  Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường.  Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba.  Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến.  Đạn nổ rền trời.  Đạn bay qua.  Đạn bay lại.  Việt-Cộng chết.  Biệt Động Quân chết.  Dân chúng cũng chết!  Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên.  Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng.  Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé...  Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó . Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).

       Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi.  Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới.  Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

       - "Thái Sơn ơi!  Hình như tank tới !"

       - "Làm gì có tank!  Chỉ có 12,7 ly thôi!"

       Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai.  Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân.  Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây.  Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát.  Hạ sĩ Phi vỡ óc.  Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc.  Sáu bánh xe be xẹp lép.  Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường.  Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu.  Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng.  Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động.  Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết.  Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. T ôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ.  Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

       . . . . . . . .