Menu

Phần 1

Giã Từ Vũ Khí

HUY VĂN


       Chân thành cảm ơn:

  • Trung Tá Hoàng Phổ, Liên Đoàn Phó LĐ 12 BĐQ,
  • Đại úy Nguyễn Trung Tín, Y Sĩ Trưởng LĐ12 BĐQ
  • Đại úy Trần Văn Qui , Tiểu Đoàn Phó TĐ37/LĐ 12BĐQ Đã bổ sung chi tiết liên quan đến thời gian, vị trí, những lần giao tranh, hành trình chuyển quân và sinh hoạt của Liên Đoàn 12BĐQ trong tuần lễ từ 23- 03 đến 29- 03-1975.

Huy Văn         

       LTS: Những đau thương, bi thảm, chết chóc, từ khởi đầu cho đến chung cuộc, nay đã tròn 32 năm - Những ngày đầu khổ nhục đó, Huy Văn còn là một sĩ quan rất trẻ.  Nay anh cố gắng nhớ và nhắc lại những đớn đau, mất mát mà anh và chúng ta đã trải qua, trong cuộc tháo chạy bỏ Quân Đoàn I, để sau đó đưa đến kết quả phải tức tưởi buông súng - Đây coi như sự chia sẻ tâm tình cá nhân, nhưng cũng cho chúng ta một cái nhìn đúng mức về chính mình, cấp chỉ huy mình, cũng như các vị lãnh đạo VNCH lúc đó . . . .

Ban Biên Tập    

       Thị Xã Tam Kỳ, Quảng Tín.

       Ngày Chúa Nhựt 23-03-1975 sáng.  Theo Trưởng Ban 4 vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 2 BB.  Cuộc tiếp xúc thật nhanh, gọn vì không có kết quả như mong đợi.  Con ai người nấy lo.  Yêu cầu tiếp liệu cho đơn vị tăng phái lúc nào cũng phải nhường ưu tiên cho cơ hữu của Sư Đoàn, nhất là Trung Đoàn 5.  Họ đang đụng nặng không kém.

      Trưa.  Theo đoàn xe tải đạn vào vị trí của Pháo Đội mà lòng buồn vô hạn.  Những lời an ủi và giải thích, dù được người Pháo Đội Trưởng vui vẻ đón nhận, cũng chỉ để che dấu một thực trạng đau lòng: Quân Đội không đủ đạn cho chiến trường!

       Bữa ăn thanh đạm với Đại úy Phương bị ngắt quãng liên tục, vì anh phải lên máy theo dõi tác xạ của 4 khẩu 105 ly.  Tiếng pháo kích của địch, tiếng phản pháo của ta, tiếng rè rè của máy PRC 25, tiếng nói như hét khi liên lạc, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp nhưng đặc thù của đời lính trận.

       - Cánh 37 đang đụng nặng.  Anh Phương buông máy, nói vội.  Mình vừa ra lịnh ưu tiên cho Đại Đội 3.  Ông Vương coi bộ mệt dữ.  Thôi.  Ăn tiếp đi Huy.

       Cổ họng tôi đắng nghét.  Cảm giác không khác gì đang nằm với trung đội ngoài kia.  Vương Vũ đúng là cô đơn quá.  Mấy thằng Em bây giờ chẳng còn ai bên cạnh.  Lê Văn Hữu để lại nửa cái đầu ở Gò Nổi.  Nguyễn Thanh Vân đang nằm liệt vì sốt rét rừng.  Còn tôi đang thấp thỏm từ vòng đai Tiểu Khu.  Bất lực.  Các Trung Đội Trưởng bây giờ là ai,  Người mới bổ sung hay những cọp già dạn dày trận mạc của Đại Đội?  Con đường nhựa đổi thành màu đất, chạy thẳng về hướng tây.  Chiến trường chỉ cách quốc lộ non 3 cây số.  Trên dãy đồi tung tóe khói, có đồng đội cũ đang cầm cự với địch.

       Định nhờ máy của Pháo Đội để gọi thăm người Đại Đội Trưởng cũ nhưng lại thôi.  Chỉ thầm mong an lành đến với mọi người.

       Chiều.  Nắng nhạt.  Tam Kỳ hầu như chỉ còn một nửa dân số.  Bưu điện đã ngưng mọi dịch vụ chuyển ngân từ hôm qua.  Thị xã vắng lặng.  Nhà cửa như bị bỏ hoang.  Trường Trung Học Tỉnh lỵ trở thành Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 2 Bộ Binh ngay từ khi mất Tiên Phước.  Tam Kỳ còn được chút sinh khí là nhờ những quán xá, khách sạn vẫn còn mở cửa.

       Quán cà phê là khoảng sân của ngôi biệt thự khá bề thế, kiểu nhà mát của các villa Pháp, nằm ngay cạnh hậu trạm của Liên Đoàn.  Xế trưa, quán vắng nên vị chủ nhân kiêm phục vụ viên vui vẻ ngồi lại trò chuyện.  Khi được hỏi vì sao còn ở lại thì người trung niên có dáng dấp rất nghệ sĩ cho biết ông là một doanh nhân, ở lại một mình, còn vợ con đã ra Đà Nẵng từ mấy hôm trước.

       - Tôi không có gì để lo sợ cả.   Nếu không thì đã vọt mất rồi.  Quán cà phê là để bà vợ tôi có việc gì đó làm cho vui.  Thu nhập không thành vấn đề, mặc dù công sức và tiền bạc bỏ ra cho ngôi vườn này cũng khá nhiều. Ông nói.

       Tôi im lặng đảo mắt nhìn quanh.  Đúng như lời ông nói.  Quán đẹp là nhờ sự sắp xếp và bày biện cây kiểng: sạch sẽ và ngăn nắp.  Quầy thâu ngân là một mái tranh thấp treo đèn và giỏ hoa.  Giàn Akai nằm ngay trên quầy, cạnh tủ kiếng nhỏ bày bán thuốc lá.  Quán có phong thái "Thạch Thảo " đúng như tên gọi.

       Thấy tôi trầm ngâm, người chủ nhân đứng dậy đi vào nhà.  Tiếng nhạc Paul Mauriat dìu dặt vọng lại từ hai chiếc loa đặt trên tam cấp dẫn lên cửa chính.  Không khí im lắng trong màu nắng nhạt làm tôi chợt nhận ra cuộc chiến đang đến hồi quyết liệt, ngoài kia bỗng nhiên ngưng hẵn tiếng súng từ lúc nào không biết.  Phút an bình tạm thời của một ngày chúa nhựt, hay là sự im lặng ngộp thở của cơn bão đang dần đến?

       - Đang tìm hứng để làm thơ phải không?

       Tôi quay lại, mừng rỡ nhận ra Đỗ Văn Tuấn, bạn học kiêm đồng đội quân trường.  Tuấn ngồi xuống ghế đối diện, không chờ hỏi đã lên tiếng trước:

       - Tao hỏi cầu may một Đại úy.  Ổng cho biết mày đang làm xếp hậu trạm.  Rồi lính của mày chỉ tao qua đây.  Thật là bất ngờ!

       Câu chuyện hàn huyên đưa chúng tôi trở lại thời lạng xe cua đào hồi còn ở trung học, rồi những buồn, vui quân trường, sau cùng là thực tại không có gì sáng sủa vì...

       - Tụi tao như rắn không đầu.  Hiện giờ đang lo bảo vệ Bộ Chỉ Huy tiền phương của Sư Đoàn.  Đại Đội Trinh Sát coi như xóa sổ.  Trung Đoàn 5 bây giờ cũng đang kẹt cứng.  Nghe nói cánh Biệt Động Quân của mày cũng đụng nặng suốt hơn hai tuần nay.

       Tôi gật đầu kể cho bạn nghe về những gì mình biết được.  Tinh thần thì vẫn còn nhưng phương tiện thì nghèo đến mức cùng cực.  Địch đang ở thế mạnh.  Chiếm đâu, giữ đó.  Còn mình thì chỉ thụ động phòng thủ, hay tấn công mà không có kết quả.  Đạn dược nhỏ giọt.  Dân chơi mà chỉ có tiền lẻ để xài.  Thật là trớ trêu.

       Tôi nhìn Tuấn, rồi chạnh nghĩ đến những bạn bè cùng lớp, những đồng đội cùng khóa ở Đồng Đế.  Mới đó mà đã gần ba năm.  Kẻ còn, người mất.  Và giờ này chỉ có hai đứa ngồi bên ly cà phê nhắc chuyện xưa để buồn cho thực tại.  Khi từ giã nhau, sau cái bắt tay chỉ là lời chúc lành cho những ngày vô định sắp tới.

       Đêm.  Dài vô tận.  Thị xã im lìm trong cảnh nhá nhem của phố phường thiếu điện.  Nặng nề và căng thẳng, không có chút sinh khí ngoại trừ tiếng quân xa qua lại đó đây và tiếng pháo rời rạc, có vẻ như thăm dò của đôi bên.  Sinh hoạt hậu trạm vẫn chỉ là những công việc thường lệ của bố trí, gác đêm, trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến lẫn tác chiến. Im lắng lạ thường.  Cảm giác như nghẹt thở.

       Thứ Hai 24-03-1975.  Đêm về sáng.

       Bê ta!  Đúng là tiếng bộc phá của đặc công.  Mọi người tỉnh giấc ngay sau tiếng nổ đầu tiên.  Dàn tuyến phòng thủ.  Nghe ngóng.  Nhận định.  Lên máy liên lạc với Liên Đoàn.  Địch đang đột nhập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn.  Chỉ vài trăm thước.  Vài khu phố.  Dăm ba cái ngã tư.  Địch có thể xâm nhập qua đây bất cứ lúc nào.  Tất cả đều sẵn sàng.  Tiếng lựu đạn, tiếng súng nổ dòn trong đêm.  Một đêm mất ngủ.  Đêm thật dài, và thật căng thẳng.

       6h:30.  Đã có chút ánh sáng bình minh.  Vẫn còn đụng độ quanh khu vực Trường Trung Học.  Pháo bắt đầu nổ bên hướng Tiểu Khu và cả Bệnh Viện gần đó.  Lệnh của Liên Đoàn: Nằm tại chỗ.  Hậu trạm của các Tiểu Đoàn cho tin có đụng độ ở khu vực của 37 và 21. Tiểu Đoàn 39 phía Tây Bắc không có báo cáo chạm địch.  Nhưng Tam Kỳ đang bắt đầu hoảng loạn.

       8h:00.  Không còn liên lạc được với Liên Đoàn qua điện thoại lẫn truyền tin.  Không rõ vì sao.  Chiếp Jeep duy nhất của Hậu trạm đã theo Đại úy Nhân về Đà Nẵng chiều hôm qua, nên Trung Sĩ Năm phải lấy Dodge chạy qua Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn nhận lịnh trực tiếp.  Khi trở về thì báo cáo của người Hạ Sĩ Quan Ban 4 không có chút lạc quan:

       - Liên Đoàn Trưởng và Ban 3 bận máy liên tục.  Truyền Tin và nhóm Tác Chiến Điện Tử đóng ở đâu không biết.  Ban 2 của Thiếu Tá Vũ cũng không thấy ai.  Chắc là theo Liên Đoàn Phó qua Tiểu Khu họp khẩn cấp.  Trinh Sát thì cũng chỉ biết lo bảo vệ khu ga xe lửa và phía tây của Bộ Chỉ Huy.  Chỗ này là tùy Thiếu úy định đoạt.  Bên đó cũng lộn xộn lắm vì không ai nắm rõ tình hình gì cả.  Tôi thở dài nhìn quanh.  Mỗi hậu trạm chỉ có vài người, lại phải lo quân nhu, tiếp liệu lỉnh kỉnh.  Xe mười chiếc, người thì trên dưới một Trung Đội, kể cả tài xế và quân nhân chờ trở lại đơn vị.  " Tùy Thiếu úy " cũng có nghĩa là không còn trông chờ lệnh lạc gì của ai.  Và ngoài kia, phía quốc lộ Mộ , đã rần rần tiếng xe và dòng người rút về hướng Bắc.  Tiếng súng và tiếng pháo kích đã thật gần.  Thêm một cố gắng để liên lạc với Liên Đoàn mà không được, nên tôi cho lệnh thu dọn lều trại.

       Còn đang loay hoay nhổ lều, cuốn bạt, thì Liên Đoàn Trưởng từ đâu phóng xe tới.  Bộ dạng hầm hầm, nhìn quanh, rồi gào lên:

       - Mấy anh đang làm gì vậy.  Định chạy làng phải không?  Ai chỉ huy ở đây?

       Tôi lật đật đến chào kính.  Chưa dứt câu thì bản đồ trên tay ông đã vỗ lên nón sắt của tôi:

       - ĐM! Ngoài kia đang đánh đấm.  Trong này tính vọt hả?!

       Ông trừng mắt nhìn tôi.  Cả hậu trạm hết hồn đứng lặng người.  Tôi cũng không nhận ra vị Trung Tá mới ba ngày trước đó đã gọi tôi trình diện và vui vẻ cho biết sẽ trả tôi về làm Chỉ Huy Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 37 BĐQ.  Hôm đó ông thân mật hỏi han chuyện Sài Gòn, và cả chuyện học hành của tôi trên Đà Lạt lúc chưa bị Tổng Động Viên.  Hôm nay thì khác.  Ông như chỉ muốn trút sự bực bội hay phẫn nộ gì đó, và tôi không may đã thành nạn nhân.  Có lẽ là nạn nhân đầu tiên trong ngày.

       Tôi cảm thấy nhục nhã vì bị đơn vị trưởng hành hung ngay trước mặt thuộc cấp của mình, nhưng vẫn giữ thế nghiêm và im lặng nhìn ông, không phân bua, không giải thích, và sau đó tôi lại thấy thông cảm cho ông.  Xét cho cùng, quả là tôi cũng muốn bỏ cuộc.  Tôi chỉ là tép riu, còn Liên Đoàn Trưởng của một đơn vị nổi tiếng mà chạy làng thì khó có thể chấp nhận được.

       Không nhận được lời nào của tôi, Trung Tá An quay sang quát tháo mọi người cho đã nư rồi lên xe phóng đi sau câu chửi thề như lúc mới tới.  Mọi người còn im lặng đứng nhìn tôi, hoang mang.  Nhưng tôi đã nhìn ra được nỗi tuyệt vọng và sự đau khổ tột cùng qua thái độ của Trung Tá An nên cho lệnh thu dọn thật nhanh.

       Khi đoàn xe chuyển bánh thì tôi biết là cũng đã đến lúc phải bỏ Tam Kỳ.  Quốc Lộ Một đông nghẹt mọi thứ xe cộ và người, dân cũng như quân.  Khó khăn lắm mấy chiếc GMC của 21 và 39 mới quẹo ra được quốc lộ để nhập vào dòng di tản.  Đến phiên Hậu Trạm Liên Đoàn thì chỉ lọt mấy chiếc GMC chở xăng, dầu, đạn dược.  Xe Dodge vì kéo "rờ mọoc" lương khô nên kẹt ngay giữa ngả tư .  Loay hoay tới lui hoài không sao quẹo trái được.  Toán Hậu Trạm của 37 đi sau cùng chờ lâu sốt ruột nên quay đầu tìm đường khác mà đi lúc nào không hay.

       9h:30.  Phía trước chỉ còn lác đác vài nhóm thường dân và sau lưng vắng hoe.  Lo tìm cách quay xe quẹo vào trục lộ mà quên luôn cả những giao tranh đâu đó thật gần.  Trên chiếc Dodge bây giờ chỉ còn tôi và hai binh sĩ thặng dư "theo Thiếu úy tới cùng".  Tài xế thì vừa chưởi thề vừa cố gắng nhích tới nhích lui mà không có kết quả.  Không thể bỏ xe, mà cũng không tháo đựơc "rờ moọc" để thoát thân.  Đang lo lắng cùng cực thì từ đâu xuất hiện một gia đình năm người, hai vợ chồng, hai con nhỏ và một lão niên.  Người chồng có lẽ là một nghĩa quân, súng đeo vai, tay xách bị.  Thấy xe, họ mừng rỡ đứng lại, nhưng rồi thất vọng khi thấy đang kẹt tại giữa đường.

       - Phải chạy nhanh lên, Thiếu úy ơi.  Nghe nói xe tăng của tụi nó đã qua cầu phía bên kia phố rồi.

       Nghe anh lính nói, tài xế hoảng hốt nhấn ga.  Chiếc xe kẹt lề, nhồi lên nhích xuống.  Vô phương.  Tôi tuyệt vọng lắc đầu.  Chưa biết phải làm sao thì từ đâu xuất hiện thêm vài người lính Sư Đoàn 2. Tôi hỏi thăm họ về Đỗ Văn Tuấn và tình hình bên Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn.

       - Đặc công đánh vô Trường học từ sáng sớm.  Một người lính kể lại.  Tụi nó chỉ có mấy thằng nhưng liều mạng.  Sau đó có thêm một toán nữa, có lẽ là du kích.  Tới sáng thì mình bể tuyến, mạnh ai nấy rút.  Tụi em kẹt lại sau cùng, chạy vòng phía sau rồi mới nhắm hướng bọc ra đây.  Không còn ai nữa đâu.  Tụi nó chiếm Trường học rồi.

       Không suy nghĩ, tôi gọi họ cùng với mọi người khác phụ đẩy chiếc xe.  Bảy, tám người góp chung sức lúc đang tuyệt vọng; nên kết quả là chiếc Dodge gầm rú, tới, lui vài lần rồi vọt ngay lên lên lề.  "Móc hậu" phía sau ngã qua, lắc lại tưởng chừng như muồn gãy cả trục bánh.

       Tài xế cho xe yên vị trên đường.  Mọi người hối hả leo lên.  Hai cháu bé và cụ già ngồi trong cabin, hai người lính Hậu Trạm đeo hai bên hông, những người còn lại đứng phía sau, kể cả tôi.  Lúc xe chuyển bánh mới hay khu vực trong tầm mắt, trước, sau, đều vắng lặng.  Mới hơn 10 giờ sáng mà Tam Kỳ đã bỏ ngỏ từ lâu.  Tiếng súng lớn, nhỏ vẫn còn, nhưng ngoài tiếng xe Dodge đang rồ ga vì kéo nặng, tôi không nghe được tiếng xích sắt của T 54, mặc dù Trường Trung Học và chiếc cầu phía nam Thị xã chỉ cách chúng tôi vài trăm thước.

       Đến gần Khu Hành Chánh và Tiểu Khu thì chúng tôi bắt kịp đoàn người di tản.  Pháo của địch đang làm tình làm tội những nơi trọng yếu, kể cả Bệnh Viện . Con đường huyết mạch trở thành "Quốc Lộ kinh hoàng".  Đáng buồn nhứt là những người dân không có phương tiện.  Họ lết bết đi hai bên lề, đưa cặp mắt thèm thuồng pha lẫn van xin nhìn đoàn xe đủ loại đang ngược bắc.

       Vừa ra khỏi Tam Kỳ thì cảnh tượng càng tang thương hơn.  Quốc lộ bình thường khá rộng, bây giờ trở nên chật hẹp, với mọi thứ trên đời vung vãi trên đường: từ quần áo, vật dụng linh tinh, kể cả xăng dầu của xe cộ bị hư hỏng, đến những nhầy nhụa khác không thể phân biệt là thứ gì.  Măc kệ.  Xe vẫn cứ chạy.  Người vẫn cứ đi.  Không phải không khí chiến tranh mà là hình ảnh của một bi kịch thoát hiểm.

       Tiếng hò hét, chửi bới, tiếng súng bắn mở đường hay xua đuổi những ai chắn lối, hoặc hù dọa những người muốn nhào lên xe để được sướng thân, hòa lẫn với tiếng kèn xe chói tai và liên tục, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp, rối bời nhưng khẩn thiết.

       Xe đò, xe nhà, xe hàng, xe gắn máy, quân xa, cơ giới đủ loại, lớn, nhỏ, hai bánh, ba bánh, bốn bánh v..v..  Mọi thứ đều cố bò, cố nhích về phía trước.  Bò, nhích là phải, vì lòng đường chật ních các lọai xe và người.  Xe hư là khốn nạn cuộc đời, vì chắc chắn phải bị bỏ lại.  Sang, hèn như nhau.  Dân, quân cũng không khác.  Mọi thứ phương tiện, có động cơ hay không, đều được tận dụng để chở người, chở của.

       Mạng người cũng rẻ rúng như bèo.  Súng tha hồ bắn.  Xe tha hồ lách, chạy, càng xa càng tốt.  Giờ phút này ai nấy đều muốn đến nơi an toàn, và Đà Nẵng là mục tiêu tối hậu.  Quốc Lộ 1 như con rắn khổng lồ.  Đuôi còn lòng thòng nơi nào đó tận trong phố Tam Kỳ không chừng, còn đầu thì không biết đã tới đâu.

       Trưa.  Con đường từ Tam Kỳ về Thăng Bình, quận cực bắc của Quảng Tín, bình thường chỉ mất mười lăm, hai chục phút xe chạy là tới nơi.  Hôm nay thì khác.  Đôi khi chỉ có người (và vật) còn có thể di chuyển.  Xe cộ thì nằm cứng một chỗ, mỗi lần có chiếc nào đó hết xăng hay hư máy nửa chừng, khổ sở lắm mới ủi được qua một bên để lấy lối cho xe chạy tiếp.

       Giữa dòng thác người và xe đang chậm chạp tiến về phía bắc là một sĩ quan không rõ cấp bậc, đứng chận những quân nhân có lẽ là thuộc cấp của ông, đẩy họ vào lề, nơi đã có một số quân nhân khác đang xớ rớ đứng, ngồi.  Chung quanh họ là vợ con, là người thân lớn, nhỏ.  Mọi người đều lộ vẻ hoang mang, lo lắng.  Chỉ có đám trẻ con còn được vài nụ cười ngây thơ và hồn nhiên khi tụm năm, tụm ba với nhau.

       Nhìn lại xe Dodge mới hay gia đình người lính Tiểu Khu và nhóm quân nhân Sư Đoàn 2 cũng đã bỏ đi hồi nào không biết.  Đoàn xe Hậu Trạm tìm được nhau nên cùng dừng lại để kiểm tra quân số, tiếp liệu phẩm và lên máy liên lạc với Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn.  Nửa ngày trời dang nắng làm con người khô khốc, nhưng lại không thấy khát, không thấy đói.  Chỉ hút thuốc, hút liên tục đến mềm môi, rát cổ, để tạm trấn áp nỗi lo lắng, buồn bực.

       Tôi buột miệng chưởi thề khi có người đề nghị chạy luôn về hậu cứ, và ra lệnh nằm tại chỗ chờ tin tức của Liên Đoàn.  Đành là giữa lúc hỗn quan, hỗn quân thì mình có toàn quyền quyết định.  Nhưng cả buổi chỉ thấy vài nhóm đồ bông lẻ tẻ, đa số đeo theo xe hậu trạm mà đi.  Các Tiểu Đoàn chắc chắn còn phía sau.

       Tôi đã quyết định không sai.  Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đang ở phía trước không bao xa, ngay trong căn cứ Hương An.  Chỉ vì lo điều động đại đơn vị nên bây giờ " Xếp " mới nhớ tới chúng tôi.  Mất liên lạc suốt nửa ngày đồng nghĩa với đoán già, đoán non, hay đồn nhảm những tin tức không có ích lợi gì cho tinh thần chiến đấu của đơn vị.

       Giờ này, Liên Đoàn Phó còn đang điều động hai Tiểu Đoàn 21 và 37 cùng với một Chi Đoàn Thiết Vận Xa triệt thoái theo chiến thuật, lấy quốc lộ làm trục chính tiến về hướng bắc.  Họ là những người sau cùng rời khỏi Quảng Tín. Kỳ An ơi Kỳ An!  Đất lành của hiền nhân Phan Chu Trinh đành bỏ lại cho địch.  Ba cây số để ra tới quốc lộ phải trả bằng máu xương giữa nắng trưa hực lửa.

       17h00.  Dang nắng cả ngày ngoài trời, tinh thần căng thẳng cực độ.  Sau cùng, hậu trạm được lệnh vào Hương An nằm chung với Liên Đoàn.  Lại kiểm điểm nhân sự và tiếp liệu, phân chia vị trí cho từng hậu trạm Tiểu Đoàn, trực máy để liên lạc thẳng với Liên Đoàn Trưởng.  Công việc thường lệ, quen thuộc, nên đâu vào đó rất nhanh, gọn.  Thì giờ còn lại là nghe ngóng tình hình.  Nhất là tin tức về các Tiểu Đoàn.

       Không có dấu hiệu truy kích của đại quân địch khi đã ra khỏi Tam Kỳ.  Chỉ là những hoạt động quấy rối của du kích địa phương dọc theo lộ trình di tản.  Cứ vậy mà hai Tiểu Đoàn BĐQ cùng Chi Đoàn Thiết Vận Xa di chuyển về tới quận Thăng Bình và bắt tay với một đơn vị của Sư Đoàn 3 BB vào lúc gần nửa đêm.

       Cùng lúc đó, Trinh Sát và ban 4 làm công việc của Kiểm Soát Quân Sự, đồng thời tìm xem còn đồng đội nào rơi rớt hay lạc lõng ở phía sau hay không.  Hai chiếc GMC chầm chậm lăn bánh.  Gió tháng 3 bắt đầu trở lạnh.  Dân chúng đã tản mác đâu hết.  Quốc lộ vắng lặng.  Nhà cửa hai bên đường không có dấu hiệu còn người sinh sống.  Có lẽ họ đã bỏ đi hay không muốn lên đèn, mở điện.  Lác đác có vài bóng người đi dọc theo con lộ.  Họ chỉ quay đầu nhìn theo xe, rồi lầm lũi bước tiếp.  Dù sao đi nữa thì Thăng Bình hoàn toàn yên tĩnh.  Một dấu hiệu đáng mừng, hay đáng lo?!

       Đêm.  Dài lê thê.  Đêm căn cứ thật yên lắng, đủ để nghe tiếng truyền tin rè rè đâu đó.  Lại cà phê, lại thấp thỏm.  Vài nhóm nhỏ chụm đầu bàn tán, trao đổi tin tức, hỏi han tình hình.  Lại một đêm hút thuốc đến vàng tay.  Một ngày trời gần như quên lửng miếng ăn mà vẫn không thấy đói.  Thêm một đêm chong mắt chờ sáng trong dằn vặt, âu lo.

       Thứ ba 25-03-1975.

       Sáng họp khẩn với Liên Đoàn, mới hay Pháo Đội 12 của Đại úy Phương và Trạm Xá của Y Sĩ Đại úy Nguyễn Trung Tín đã về tới Phú Lộc hôm qua.  Ban 4 hành quân rời Hương An ngay sau khi liên lạc và điều động đoàn xe Quân Vận đến bốc toàn bộ Liên Đoàn về hậu cứ.  Đoàn xe thật ra chỉ là vài chiếc tăng phái vì nhu cầu đâu phải chỉ có Bịệt Động Quân.  Vì vậy xe hậu trạm rồi cơ hữu của từng Tiểu Đoàn cũng được xử dụng tối đa.

       Tuy không kẹt xe và hỗn loạn như hôm qua, nhưng quốc lộ vẫn một nhịp hối hả, cấp bách của cơ giới đủ loại, nhứt là xe nhà binh.  Về ngang Duy Xuyên đã thấy dòng người từ trong Trà Kiệu túa ra đủ để gây khó khăn cho giao thông trên lộ chính.  Xe và người cứ thế mà dồn về Đà Nẵng. Vĩnh Điện cũng bị kẹt cầu, kẹt lộ, vì xe từ Tỉnh lộ nối với Giao Thủy, Đại Lộc cũng rần rần nhập vào.  Nhưng về tới Miếu Bông, Câu Lâu, Cây Lan, Phước Tường, thì sự hớt hải mới rõ nét với những lo lắng, hoang mang trên mặt người và sự dồn nén, bế tắc lưu thông trên công lộ.  Phải dùng đến sự thị uy của Quân Cảnh trên Commando Car mới giải tỏa trật tự và an ninh phần nào trên đường dẫn vào phố chính.  Xe từ Huế xuống, từ Quảng Tín lên. Người theo xe nườm nượp.  Đà Nẵng đã trở thành ốc đảo, thành chiếc phao và thành niềm hy vọng sau cùng của Quân và Dân Quân Khu 1.

       Không kể thời gian chờ đợi, rồi thứ tự lên xe, thì phải mất hơn bốn tiếng mới đưa được toàn bộ Liên Đoàn 12 BĐQ về tới Phú Lộc, nhưng không phải ai cũng suông sẻ và may mắn như những chuyến đầu tiên.  Đoàn xe sau cùng, vỏn vẹn có 6 chiếc dành cho Tiểu Đoàn 37 và số quân nhân còn lại của 21, đã bị phục kích tại cầu Bà Réng, cửa ngõ vào Đà Nẵng từ hướng nam, ngay trong vùng trách nhiệm của Trung Tá Võ Vàng, lúc đó đã về chỉ huy một lực lượng Địa Phương Quân của Tiểu Khu.

       Một xe GMC tan tành vì B40!  Lại đổ máu và chiến đấu trong điều kiện nghiệt ngã nhứt: mỗi người một gắp đạn phòng thân, đã cầm cự rồi đẩy lui đám du kích chừng 20,30 tên.  Đường về lại chia hai ngả: kẻ qua Tổng Y Viện Duy Tân để được ướp lạnh hay băng bó, người vào Phú Lộc trong sự rời rã đến tột cùng.

       Phú Lộc của những hân hoan lúc dưỡng quân, của hạnh phúc khi xum họp, đã thật nặng nề với bất ổn và xôn xao, cũng như bất cứ nơi nào khác.  Nụ cười quen thuộc trong các trại gia binh đã nhường chỗ cho ánh mắt âu lo, bồn chồn, những giọt nước mắt xót xa cho những ai hy sinh hay trọng thương trong giờ phút cuối.  Hậu cứ Liên Đoàn chưa bao giờ căng thẳng và buồn tẻ như lúc này.  Sắp xếp đâu đó xong xuôi là đã chập choạng tối . Ăn tạm mì gói bên Câu Lạc Bộ, về xem công điện và văn thư mới nhận thì Đại úy Quỳnh vào thông báo Ban 4 trực chính, nên có công tác khẩn cần thi hành ngay.  Tôi giao việc lại cho Ông Quỳnh, rồi đến gặp Trung úy Long, Ban 5, nhận một Tiểu Đội Kiểm Soát, và 2 GMC để ra Đà Nẵng tảo thanh, tước khí giới và bắt giữ những quân nhân bất hảo đang phá phách ngoài phố.

       Đà Nẵng đang gặp nhân mãn.  Người và xe đầy nghẹt trên đường.  Thành phố đang lên cơn sốt vì dòng người di tản từ hai đầu Bắc, Nam dồn vào không ngớt.  Cảnh sát sắc phục đã biến mất.  Chỉ còn dân Dã Chiến và Quân Cảnh Tiểu Khu đang cố vãn hồi trật tự từ trên các Commando Car.  Đã có lệnh nổ súng bắn bỏ những ai vô kỷ luật và phá rối trị an.  Đã có những thương vong và bất hạnh vì những phát súng vô tội vạ hay cướp bóc lẻ tẻ.

       Ngoài đường bây giờ lính tráng tới lui tấp nập. Dân chúng cũng xuôi ngược ồn ào.  Lại thỉnh thoảng kẹt xe.  Đôi lúc phải dừng lại để " hỏi thăm sức khỏe " phe ta: những anh em thuộc Liên Đoàn 14 và 15 BĐQ từ hướng tây bắc rút về.  Tội nghiệp cho những con Cọp tan đàn không còn nanh vuốt đang lạc lõng giữa phố thị.

       Lính thì không gom một ai.  Vũ khí, đa số là M16 , thì cũng được nửa sàn xe.  Một vòng phố chính cũng mất hơn hai tiếng đồng hồ.  Đủ để chứng kiến cảnh hoang mang của dân tình và vẻ thất thểu của những người lính không còn đơn vị.  Sự sụp đổ nhanh quá.  Như Domino trên bàn cờ.  Không có gì giữ lại được.  Kể cả sự cố gắng ổn định tình hình của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, một dũng tướng ngày đêm sát cánh với mọi đơn vị.

       Đà Nẵng bây giờ là một cái rọ khổng lồ không hơn không kém.  Hèn chi địch không cần truy đuổi ráo riết.  Cứ để sợi thòng lọng từ từ siết lại.  Tuy vẫn còn tiềm năng và đang cố vãn hồi trật tự, nhưng Đà Nẵng không khác gì cá nằm trên thớt, như con mồi đang tuyệt vọng vẫy vùng trong chiếc lưới đang dần dà phủ chụp.

       23h00.  Xe về Phú Lộc . Khu gia binh nhìn thoáng qua thì vẫn như lúc bình thường: tối tăm và im vắng sau khi máy đèn ngưng chạy.  Nhưng chắc chắn trong từng nhà là những thao thức triền miên, vì chưa có lần nào Liên Đoàn rối rắm như hiện nay, kể cả Lam Sơn 719 và Mùa Hè Đỏ Lửa.  Ba năm, hai lần lui binh khẩn cấp, nhưng lần này thì tình hình tồi tệ đến mức không ngờ.  Buồn thay!

       Hai chiếc GMC nằm ngay giữa sân cờ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn.  "Chiến lợi phẩm" để nguyên trên xe.  Toàn là súng không có đạn.  Mọi thứ khác, kể cả lựu đạn, được mang vào văn phòng ban 4.  Ai nấy đều mệt nhoài.  Hai ngày mất ngủ đang bắt đầu hành hạ tôi.  Chỉ kịp hoàn tất bản báo cáo là hai mắt đã híp lại không cách gì cưỡng được.  Trước khi thiếp đi, tôi cũng còn đọc thấy mảnh giấy trên bàn: 8 giờ sáng 26-03 họp với LĐT.

       Thứ tư 26-03-1975.

       Đêm ngủ ngon nhưng sáng dậy cả người khô ran.  Câu Lạc Bộ vẫn đông nhưng câu chuyện đã không ồn ào như mọi khi.  Ai nấy cũng đều có vẻ trầm ngâm một cách bất thường.  Vài gương mặt quen thuộc của Tiểu Đoàn 37 cũng có mặt.  Thì ra cuộc họp có các Đại Đội Trưởng về tham dự.

       8h00: Phòng họp đang xì xào to nhỏ tự động lắng ngay xuống khi Liên Đoàn Trưởng xuất hiện . Vào hàng.  Phắc. Chào kính.  Trình diện.  An vị.  Lại im lặng.  Không khí thật nặng nề.  Trung Tá An trợn mắt nhìn khắp phòng rồi bất ngờ gào lên:

       - Nếu tôi là Đại úy Phương thì ra ngoài sân cờ tự vận cho rồi.

       Mọi người bàng hoàng chưa biết chuyện gì xảy ra, thì Liên Đoàn Trưởng đã chạy đến đấm túi bụi vào mặt người Pháo Đội Trưởng.  Nhưng ông chỉ đánh trúng chừng hai bạt tai là đã bị Liên Đoàn Phó giữ lại từ phía sau, rồi kéo trở lại bục thuyết trình.  Im lặng hồi lâu.  Mọi người cũng nín thở sau phút giây bất ngờ.  Một lát sau, Trung Tá An mới chậm rãi chỉ vào Đại úy Phương mà nói:

       - Người này đã làm nhục cho binh chủng, vì chưa có lệnh mà đã rút chạy về hậu cứ, trong khi mọi người còn ở hành quân.

       Tôi lạnh người vì lời buộc tội này.  May quá! Nếu không vì chiếc xe Dodge bị kẹt ngay giữa phố Tam Kỳ thì không biết ai vọt trước ai.  Và không chừng tôi cũng chịu chung số phận như Đại úy Phương hôm nay, nếu không cương quyết ở lại Thăng Bình.

       Như muốn an ủi con chiên bị tế thần, đồng thời nói về tình trạng hỗn loạn lúc còn ở Quảng Tín, Liên Đoàn Phó ôn tồn giải thích với mọi người là sau cuộc họp khẩn cấp với Tiểu Khu vào sáng ngày 24-03-1975, thì ông trở về BCH/ LĐ 12BĐQ, đóng tại Ga xe lửa Quảng Tín, để thông báo cho Tr/ Tá An biết về cuộc triệt thoái ra khỏi Tỉnh.

       Sau đó BCH/LĐ di tản khẩn cấp về hướng Đà Nẵng.  Và đó cũng là lần gặp mặt cuối cùng trong ngày của ông với Liên Đoàn Trưởng, vì ông bận rộn với việc điều động các đơn vị trực thuộc (2 TĐ/ BĐQ và Chi Đoàn TVX) rời vị trí đóng quân để di tản về hướng bắc.  Trong ngày 24-03-1975 ông không liên lạc được và cũng không nhận được một lệnh gì của Tr/ Tá An.

       Theo lời Trung Tá Hoàng Phổ thì 24-03-1975 là một ngày xáo trộn về mọi mặt.  Tiểu Khu không liên lạc được với Sư Đoàn 2 BB, nên đã họp các đơn vị còn lại, dưới sự chủ tọa của Đại Tá Đào Mộng Xuân, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Tín.  Sau khi thẩm định tình hình chung, tất cả sĩ quan đại diện các đơn vị đồng lòng chấp thuận giải pháp di tản khẩn cấp ngay sau đó.

        . . . . . .