Menu

Phần 2

Sự Thực Về Cái Gọi Là "Đại Thắng Mùa Xuân"

Trần Bá Hợi


         . . . . .

        Thủ Tướng Chu: Còn về quân lực của quí quốc ở Thái Lan?

      Tiến Sĩ Kissinger: Chúng tôi chưa chuẩn bị di chuyển quân lực của chúng tôi ra khỏi Thái Lan.  Nhưng với những điều kiện của ngưng bắn chúng tôi đồng ý sẽ không sử dụng lực lượng này trong cuộc chiến ở Việt Nam.  Và tất nhiên sẽ giảm thiểu xuống mức độ trước cuộc tấn công nếu hòa bình đạt được.

       Để giải thích điều tôi muốn nói về hành động phản bội này, dù tôi biết điều này có phần nhức nhối, thưa Thủ Tướng, nhưng tôi muốn giải thích: Nếu khi tôi tới đây lần đầu vào tháng 7 Thủ Tướng nói, "Chúng tôi không thương lượng với quí quốc cho tới khi quí quốc lật đổ Tưởng Giói Thạch và thay thế bằng một nhân vật nào đó chúng tôi chấp nhận được", thì, dù tận tụy với quan hệ Trung Hoa - Hoa Kỳ như tôi, chúng tôi cũng không thể thỏa mãn được.  Việc sẽ không thể xảy ra.  Bí quyết của quan hệ giữa chúng ta là chúng ta chuẩn bị mở đầu một tiến trình mà Thủ Tướng đã bày tỏ với nhiều tin tưởng.  Hành động như vậy sẽ hoàn toàn làm ô danh chúng tôi và biến chúng tôi thành một người bạn vô dụng của quí quốc, vì nếu chúng tôi hành xử như vậy với một cộng sự viên thì chúng tôi sẽ hành xử như vậy với tất cả.

       Nhưng để trở lại vấn đề Thái Lan. Trong mọi quyết định quan trọng chúng ta đã bàn thảo, tối thiểu có hai khía cạnh, quyết định và xu hướng.  Trong buổi tiệc hôm nọ với năm người Hoa Kỳ Thủ Tướng có viện dẫn đến trường hợp năm 1954.  Và vào năm 1954, dù việc gì đã xảy ra, dù chúng tôi ký kết tài liệu gì.  Sự thực là Tổng Trưởng Dulles đã tìm những lý do để can thiệp, vì ông ta tin rằng Trung Cộng đã có âm mưu thôn tính Á Châu.  Chúng tôi đang tìm những lý do ngược lại.

       Thủ Tướng Chu: Hậu quả của chính của chính sách Dulles đã kết thúc với một số thương thuyết và ký kết Hiệp Định, nhưng bây giờ ông muốn tuân thủ những Hiệp Định này.  Như vậy có nghĩa là duy trì chính sách của ông ta?

       Tiến Sĩ Kissinger: Duy trì ở một mức độ.  Nhưng về phía khác, khi chúng ta thỏa thuận về vụ Đông Dương, chúng ta sẽ tạo một quan hệ mới.  Nếu chúng tôi tạo được quan hệ mới với Bắc Kinh tại sao chúng tôi không tạo được với Hà Nội?  Hà Nội có làm gì chúng tôi đến độ khiến chúng tôi không, giả tỉ trong mười năm, tạo một quan hệ mới?

       Thủ Tướng Chu: Nếu sau khi quí vị triệt thoái và các tù binh đã hồi hương, nếu sau đó, nội chiến tái phát ở Việt Nam, quí quốc sẽ hành sử ra sao?  Có thể vấn đề khó khăn cho ông để trả lời.

       Tiến Sĩ Kissinger: Vấn đề có khó cho tôi trả lời một phần vì tôi không muốn khuyến khích để sự việc xảy ra.  Nhưng để tôi trả lời với nhận định tốt nhất của tôi.  Thí dụ, nếu đề nghị ngày 8 tháng 5 của chúng tôi được chấp thuận, tức có 4 tháng để triệt thoái và 4 tháng để trao đổi tù binh.  Nếu vào tháng thứ năm chiến tranh tái phát, diều này có thể khiến chúng tôi cho rằng đây chỉ là một xảo thuật nhằm đẩy chúng tôi ra và chúng tôi không thể chấp nhận được.

       Nếu Bắc Việt, về phía khác, tiến hành nghiêm chỉnh sự đàm phán với miền Nam, và nếu sau một thời gian dài sự việc bùng nổ trở lại sau khi chúng tôi đã hoàn toàn tách rời, ý kiến riêng của tôi là rất khó có thể khiến chúng tôi trở lại, rất khó có thể.

       Thủ Tướng Chu: Năm ngoái ông cũng nói như vậy.

       Tiến Sĩ Kissinger: Năm ngoái nếu họ đã chấp nhận đề nghị của chúng tôi thì bây giờ đã được một năm.  Nếu Bắc Việt có thể thay đổi?

       Thủ Tướng Chu: Ông có nói năm ngoái sau khi quí ông triệt thoái và lúc đó những tù binh đã được trao trả rồi những gì xảy ra lúc đó là việc của họ.  Trên nguyên tắc ông có nói vậy.

       Tiến Sĩ Kissinger: Trên nguyên tắc chúng tôi đang có ý như vậy, tất nhiên, tùy thuộc vào mức độ các quốc gia bên ngoài can thiệp.  Nếu có ai chuyển được từ một cuộc xung đột quốc tế trong đó có nhiều thế lực lớn tham dự thành một cuộc cuộc xung đột địa phương, thì tôi nghĩ những gì Thủ Tướng nói có thể xảy ra.  Nhưng đây là ý định của chúng tôi và khi chúng tôi sẽ thực hiện chính sách đó, đó là vài bảo đảm.

       Hiện tại, điều khó khăn là, với những lý do dễ hiểu, phía Bắc Việt - những người tôi đã nhiều lần bày tỏ với Thủ Tướng, tôi rất kính trọng - đang phô trương bài thơ thiên anh hùng ca về cuộc đấu tranh dành độc lập qua nhiều thế kỷ và đặc biệt lại đang tái diễn những kinh nghiệm của 20 năm trưóc.

       Thủ Tướng Chu: Nếu chúng ta kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, 27 năm, và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chết cho mục đích này trước khi hoàn tất.  Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, nhưng cũng là một người nhân đạo và ái quốc.  Tôi quen biết thân tình với Chủ Tịch Hồ Chí Minh.  Tôi đã biết ông ta 50 năm.  Tôi đã gia nhập đảng cộng sản 50 năm và đã biết ông 50 năm.

       Tiến Sĩ Kissinger: Tôi chưa hề gặp ông ta, nhưng tôi biết một người Pháp có nhà mà Hồ Chí Minh đã cư ngụ.  Thực ra, tôi đã nhờ người Pháp này nói chuyện với Hồ Chí Minh năm 1967 -và do đó tôi đã liên hệ đến những sự việc tại Đông Dương.

       Thủ Tướng Chu: Ông Salisbury cũng đã ở Hà Nội.  Nhưng là một ký giả địa vị của ông ta khác với ông.

        Tiến Sĩ Kissinger: Đó là một vị trí tôi không bí mật được.

       Thủ Tướng Chu: Nhược điểm đó có thể là nguyên nhân sự việc vẫn chưa giải quyết được.  Có thể nếu ông có hiện diện ông đã rõ ràng hơn về tình hình.

       Tiến Sĩ Kissinger: Tôi rõ về tình hình.  Nhưng giải pháp là điều tôi không được rõ.

       Thủ Tướng Chu: Ông có một chuyên viên mới.  Ông Smyser bị bệnh ruột.

       Tiến Sĩ Kissinger: Nhưng ông ta phục hồi ngay trước khi Thủ Tướng đãi vịt Bắc Kinh. (cười)

       Thủ Tướng Chu: Ông ta vẫn hợp tác với ông?

       Tiến Sĩ Kissinger: Không, ông ta trở lại Đại Học một năm, nhưng sẽ trở lại sau một năm.

      Thủ Tướng Chu: Phương pháp này của quí quốc thật hay, cho cộng sự viên nghỉ để dự Đại Học một năm rồi trở lại.

       Tiến Sĩ Kissinger: Tôi không nghĩ rằng Smyser sẽ tái hoạt động về những vấn đề Việt Nam.  Có thể sẽ không còn vấn đề Việt Nam để làm nữa.

       Thủ Tướng Chu: Không nhất thiết như vậy.  Vấn đề Sài gòn thực sự là một việc quá nhức đầu.  Và đây là một trái đắng do Dulles lưu lại chưa giải quyết được.  Đó là một thảm kịch do Dulles tạo nên mà bây giờ chính ông cũng đang nếm mùi trái đắng đó.

       Tiến Sĩ Kissinger: Tôi đồng ý với Thủ Tướng là những gì chúng ta đang phải đối phó ở Việt Nam là một thảm kịch.

       Thủ Tướng Chu: Quí quốc có thể rũ sạch thảm kịch này.

       Tiến Sĩ Kissinger: Không.  Tùy thuộc vào Thủ Tướng có ý định gì với câu rũ sạch thảm kịch này.  Việc triệt thoái chúng tôi có thể thực hiện; những đòi hỏi khác chúng tôi không thực hiện được.  Xin để tôi trình bày trọn vẹn sự thẩm định tình hình của tôi.

       Tôi công nhận khách quan mà nói vấn đề rất khó khăn, và tôi thú thực chúng tôi đã chứng minh trong 20 năm là chúng tôi không hiểu hoàn cảnh Việt Nam rõ lắm.  Nhưng chính quyền Bắc Việt cũng đã làm cho giải pháp vô cùng phức tạp.

       Trước hết, tới giờ tôi đã thương lượng 13 lần "tám lần với Lê Đức Thọ; năm lần với Xuân Thủy".  Mục đích chính yếu khi tôi thương lượng là gi?  Mục đích chính yếu của tôi là để có thể đi vào thực chất của vấn đề và để đạt những quyết định quan trọng - - đó là mục đích chính yếu của tôi trong những buổi thương thuyết.  Tôi hữu dụng trong những quyết định lớn, không phải để giải quyết một loạt những tiểu tiết.  Những tiểu tiết nên để những nhà ngoại giao thi hành.

       Trong 13 buổi họp với họ, họ đã ràng buộc tôi vào những chuyện chiến tranh du kích lặt vặt trong đó chúng tôi hành sử như ở cấp luật sư trung cấp nhằm tìm kiếm những kẽ hở của những điều khoản trong những thành ngữ.  Tôi lập đi lập lại với ông Lê Đức Thọ - Tôi hiểu điều này làm ông buồn phiền tiện đây, thưa Thủ Tướng, và tôi biết ông là người của nguyên tắc luôn luôn sát cánh với đồng minh, nhưng tôi đang cố gắng giải thích - hãy để chúng tôi sắp đặt một mục đích, thí dụ trong 6 tháng chúng tôi sẽ thực hiện điều này điều nọ, và rồi chúng tôi sẽ tìm một giải pháp khôn khéo.  Và lần nào họ cũng từ chối.  Lần nào họ cũng làm vậy với hai lý do.  Một là họ e ngại thủ đoạn gian trá nên dành thêm thời giờ tìm hiểu những kẽ hở của những điều khoản thay vì tìm hiểu những điều khoản chính của bất cứ sự thỏa thuận nào.  Và họ ép buộc để đòi hỏi tức thời những gì chúng tôi có thể chuẩn bị để thực hiện trong thời gian vài năm.  Và thứ nữa là, tính chất chiến lược của họ.  Chiến lược của họ là gì?  Chiến lược của họ là theo đuổi một chiến dịch quân sự với ý đồ, một là, phá hoại chính quyền Sài gòn, mà tôi hiểu, và về phía khác, một sự phối hợp quân sự với chiến dịch tâm lý để phá hoại chính quyền Hoa Kỳ, và đó là điều chúng tôi không bao giờ chấp nhận.  Họ không bao giờ quyết định được, hoặc họ muốn thương thuyết với chúng tôi hoặc tiêu diệt chúng tôi, hoặc ít nhất đẩy chúng tôi vào một vị thế bị mất sự hỗ trợ của quần chúng.  Và vì vậy, họ sẽ không nhượng bộ, hoặc cho tới hiện tại không chịu nhượng bộ, với tôi hoặc với bất cứ người điều đình Hoa Kỳ nào, vì họ e ngại nếu có một giải pháp hoặc ngay cả việc ít trở ngại nhất, chúng tôi sẽ có sự ủng hộ của quần chúng và do đó họ sẽ không đat được mục tiêu chính là triệt ha sự ủng hộ của quần chúng đối với chúng tôi hầu làm tê liệt chúng tôi.  Đây chính là nguyên nhân làm buổi họp giữa tôi và Lê Đức Thọ thất bại. Khi họ nghĩ họ đang thắng thế, chiến lược thực của họ là trình diễn cho quần chúng Hoa Kỳ tình trạng vô vọng, và do đó ép chúng tôi vào trường hợp tiến thoái lưỡng nan không còn sự lựa chọn nào ngoài sự nhượng bộ về những đòi hỏi của họ.  Đây là tại sao họ đối xử với chúng tôi về vấn đề những tù binh, không qua chính quyền hoặc Hội Hồng Thập Tự, nhưng qua những nhóm Hoa Kỳ chống đối không hiểu tầm quan trọng của sự việc.

       Thủ Tướng Chu: Nhưng cũng không chỉnh khi quí quốc đột kích trại giam tù binh của họ.

       Tiến Sĩ Kissinger: Đây, trước hết tôi nghĩ đó là một việc khác mà tôi rất vui lòng thảo luận với Thủ Tướng, nhưng tôi không nói rằng tất cả những hoạt động chúng tôi làm trong cuộc chiến đều nhất thiết là đúng cả.  Tôi đang nói là chúng ta đang đối diện với một hoàn cảnh cần thiết một giải pháp.  Nhưng tôi nhận - tuy không trong trường hợp này - nhưng chúng tôi đã làm nhiều lầm lỗi.  Đây là lý do tại sao họ đang làm lớn chuyện về việc triệu tập lại những phiên họp khoáng đại, và tuy vậy những ai chín chắn đều nhận ra là nó chẳng thay đổi được gì dù có phiên họp khoáng đại khi không có điều gì để thảo luận.  Cho tới khi có một chương trình để thương lượng trong phiên họp khoáng đại, tất cả chỉ là tuyên truyền rỗng tuếch.

       Chúng tôi đã chuẩn bị để tái nhóm phiên họp khoáng đại chỉ để kết thúc riêng vấn đề đó, nhưng chắc họ sẽ không đạt được nếu không có một nền tảng mói để thương lượng, và nếu họ không thay đổi sách lược.  Chúng tôi cố gắng - và Thủ Tướng sẽ có nhận định riêng về việc này - chúng tôi tin rằng để thương thảo với các quốc gia khác nếu thiếu đạo đức và danh dự, dù có lợi về chiến thuật rồi về lâu dài cũng thất bại.  Nhưng rất khó khăn để thương thảo với một quốc gia muốn phá hoại thẩm quyền của nhân vật đàm phán.

       Giờ đây, chúng ta bàn về cuộc tấn công của Bắc Việt.  Không có cuộc tấn công đó chúng tôi đã rút thêm quân và phi cơ nữa.  Chúng tôi không có chút ý định nào để gia tăng mức độ hoạt động quân sự.  Trái lại, chúng tôi sẽ giảm quân nhanh hơn.  Nhưng cuộc tấn công của Bắc Việt đưa chúng tôi vào một vị trí mà họ muốn dùng sự việc của cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ để làm khó và bắt chúng tôi phải chấp nhận đòi hỏi của họ mà chúng tôi không thể thỏa mãn.  Chúng tôi có thể thỏa mãn tất cả các đòi hỏi khác, nhưng không phải điều đó.

       Hiện tại tình trạng hôm nay ra sao?  Tôi biết phải nói gì về tuyên truyền, nhưng với sự phán đoán của tôi thì cuộc tấn công của Bắc Việt bị ngăn chặn và không có một triển vọng quân sự nào trong năm nay.  Họ đã không tạo được phong trào chống đối to lớn tại Hoa Kỳ, dù rằng có vài kẻ đi loanh quanh với cờ Việt Nam, mà cũng chẳng được bao nhiêu.  Vào thời gian vụ Cam bốt đã có 200,000 người chống đối tại Hoa Thịnh Đốn, và họ cũng không ngăn chặn được việc chúng tôi làm.  Sau ngày 8 tháng năm họ cố gắng lôi kéo 200,000 và họ có được 5 ngàn.  Vậy tình trạng chúng ta ra sao?  Hy vọng duy nhất của Bắc Việt là sự đắc cử của McGovern vào tháng mười một.  Chúng tôi không nghĩ chuyện này sẽ xảy ra.  Cuộc thăm dò chót cho thấy Tổng Thống trên McGovern 20 điểm.

       Thủ Tướng Chu: Ngay cả nếu McGovern đắc cử, ông ta có thể loại Thiệu được không?

       Tiến Sĩ Kissinger: Tôi không chắc.

       Thủ Tướng Chu: Không cần thiết.

       Tiến Sĩ Kissinger: Không cần thiết.

       Thủ Tướng Chu: Quan niệm của tôi giống ông.

       Tiến Sĩ Kissinger: Và đừng quên chúng tôi còn tại vị (cầm quyền) bẩy tháng nữa.

       Thủ Tướng Chu: Đó lại là một vấn đề khác.  Ngay cả nếu ông ta đắc cử liệu ông ta có từ bỏ hỗ trợ thể chế Sài gòn không?

        Tiến Sĩ Kissinger: Nói thì dễ hơn làm.

       Thủ Tướng Chu: Con đường chông gai quí quốc tạo nên làm khó khăn cho quí quốc thoát ra.

       Tiến Sĩ Kissinger: Điều đó đúng.

       Thủ Tướng Chu: Dù là Tổng Thống Nixon hay McGovern hoặc Ed Kennedy.  Ngay cả nếu ông là Tổng Thống hoàn cảnh cũng khó khăn.  Nhưng thật đáng tiếc, ông không có điều kiện.

       Tiến Sĩ Kissinger: Chúng ta đề cử cô Tang.

       Thủ Tướng Chu: Ngay cô ta cũng không thoát ra nổi.

       Tiến Sĩ Kissinger: Nếu cô ứng cử và để tôi làm cố vấn, có lẽ cùng nhau chúng tôi có thể làm được việc gì đó.

       Thủ Tướng Chu: Việc này ràng buộc vào việc khác và hầu hết đều bất lợi.

       Tiến Sĩ Kissinger: Điều đó đúng.  Nhưng những lực lượng bầu cho McGovern sẽ đem lại một định hướng mới trong chính sách Hoa Kỳ không những đối với Việt Nam, mà tất nhiên là liên quan tới Nga Sô, Ấn Độ, Nhật Bản, như Thủ Tướng đã thấy trong bài xã luận của tờ Nữu ước Thời Báo.  Tôi không phải giải thích.  Nếu Thủ Tướng thấy cái xu hướng của Nữu ước Thời Báo, thí dụ như lúc tôi đe dọa hủy bỏ buổi họp thượng đỉnh tại Mạc Tư Khoa hoặc trường hợp bên Ấn Độ mà không thể nhờ họ đăng bất cứ quan điểm nào khác, ngay cả trên những cột tin tức, Thủ Tướng sẽ có vài khái niệm của thực tế về những gì sẽ xảy ra nếu điều đó xảy ra.  Tôi sẽ trình bày rất thực tế.  Tất cả đều ủng hộ quan hệ Trung Hoa - Hoa Kỳ.  Không còn có sự chống đối cơ bản nữa.  Nhưng hậu quả thực tế họ chuẩn bị gặt hái và những quyết định thực họ muốn làm ngoài sự xác nhận tình cảm và trao đổi văn hóa, sẽ khác rất nhiều.  Và do đó, chúng tôi tin rằng phải ngưng chiến tranh ngay vì lợi ích chung.  Nếu chiến tranh tiếp diễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chắc chắn sẽ thiệt hại thêm hơn là có thể có lợi.  Thế tấn công quân sự của họ đã ngưng; tình trạng nội bộ khó khăn; và chúng tôi có thể bị cưỡng bách đối sử với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa những điều trên tất cả những gì tương xứng với mục đích của chúng tôi.  Chúng tôi không muốn họ yếu kém.  Và chúng tôi không nhìn thấy triển vọng họ có thể đảo ngược tình hình. V à chúng tôi muốn chấm dứt chiến tranh, vì hiện nó đòi hỏi một nỗ lực không cân xứng với mục đích, nhưng vì nó liên hệ chúng tôi vào cuộc thảo luận với những quốc gia mà chúng tôi có nhiều dịch vụ quan trọng hơn.

       Nếu chúng tôi có thể thảo luận với họ như thảo luận với quí vị, thưa Thủ Tướng - tôi không muốn nói về ngôn ngữ mà về thái độ - tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể giải quyết chiến tranh.  Như một sự việc thực tế, chúng tôi nghĩ cách thức nhanh nhất để chấm dứt là trên căn bản ngưng bắn, triệt thoái, và trao trả những tù binh.  Đó là giải pháp ít phức tạp nhất và tương lai tính sau.  Chúng tôi sẵn sàng ngoài việc tuyên bố sự trung lập của chúng tôi trong mọi tranh chấp chính trị khi có và về chính sách đối ngoại chúng tôi chuẩn bị để thấy Nam Việt Nam thiết lập một chính sách đối ngoại trung lập.  Chúng tôi củng có thể trở lại với đề nghị Tổng Thống trình bày ngày 25 tháng Giêng năm ngoái và được chính thức đệ trình ngày 27 tháng Giêng, và có thể sửa đổi điều khoản này hoặc điều khoản khác liên hệ tới thảo luận chính trị luôn.  Nhưng trên thực tế, thảo luận chính trị kéo dài rất lâu.  Và hậu quả thực tế của bất cứ cuộc thảo luận chính trị nào là hoặc xác nhận sự hiện hữu của chính quyền Sài gòn thì không chấp nhận được với Hà Nội, hoặc lật đổ chính quyền hiện hữu tại Sài gòn thì chúng tôi không chấp nhận được.  Và gần như vô vọng để nghĩ đến một biện pháp có thể tương nhượng giữa hai phe này.  Cho nên chúng ta cần tìm một phương thức để chấm dứt chiến tranh, ngăn chặn nó trở nên một vấn đề quốc tế, và để hoàn cảnh khai triển tới chỗ mà tương lai của người Đông Dương được hoàn lại cho người Đông Dương.  Và tôi cam đoan với Thủ Tướng đó là mục tiêu duy nhất của chúng tôi tại Đông Dương, và tôi không tin nó khác biệt với Thủ Tướng.  Chúng tôi không đòi hỏi gì cho chúng tôi tại đó.  Và trong khi chúng tôi không thể đưa một chính quyền cộng sản lên nắm chính quyền, nếu, do sự xoay vần của lịch sử mà nó xảy ra sau một thời gian, thì nếu chúng tôi sống chung được với một chính quyền cộng sản Trung Hoa, chúng tôi sẽ chấp nhận được ở Đông Dương.  Thủ Tướng gặp được ngày tôi nói khá nhiều. (Cười)

       Thủ Tướng Chu: Vậy chúng ta chấm dứt hôm nay.  Còn về sáng mai, trước hết tôi sẽ tham khảo ông Phó Chủ Tịch Yeh Chien-ying, và rồi có thể sáng hôm sau ông sẽ thảo luận với ông ta.  Tôi nghe ông muốn có một buổi tiệc ngoài trời tại Cung Đình Mùa Hạ.

       Tiến Sĩ Kissinger: Có người hỏi tôi muốn thăm thêm chỗ nào ngoài Cung Cấm. Tôi trả lời Cung Đình Mùa Hạ đẹp quá và tôi muốn thăm nữa.  Nhưng ý kiến về buổi tiệc ngoài trời là một ý thêm rất đẹp nhưng không do tôi.  Đó là ý kiến của Ban Nghi Lễ.  Nhưng công việc phải ưu tiên hơn tiệc tùng.

*************************************************************************************

       (1) New Perspective on Dien Bien Phu by Pierre Asselin. Volume 1, No. 2 Fall 1997.

       (2) Apprentices of War - Memoir of a Marine Grunt by Gary L. Tornes. In 1967, base pay: $155.00.  Combat pay: $75.00.  Overseas pay: $45.00. Total gross:: $255.00. Trang 247.  Căn cứ theo Global Finacial Data, hối xuất chính thức tại Nam Viet Nam August 1965: $1.00 US = $118.00 VN piastres.  Như vậy lương tháng của một Hạ Sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ độc thân năm 1967 = $26,550.00 đồng VN.  Và một Thiếu Tá phi công Việt Nam Cộng Hòa lãnh khoảng $65,000 đồng VN trong đó có cả phụ cấp gia đình (vợ + 3 con) và phụ cấp phi hành.

      (3) The Air War Against North Vietnam.  USAF in S.E Asia 1961-1973 report 1984. Chapter IV. "The President retained such firm control of the air campaign against the North that no important target or new target areas could be hit without his approval. Page 1."  And on page 4: "During the first two years of operations over the North, President Johnson periodically ordered bombing pauses in an effort to bring Hanoi's leaders around to discuss a political settlement of the war."

       (4) The White House - Memorandum of Conversation.  Top Secret/Sensitive/ Exclusive Eyes Only.