Sau 30 Năm Giữ Yên Lặng, Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Melvin R. Laird Nói Gì VềCuộc Chiến Tranh ở Việt Nam?[03/03/2006 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]
(Tiếp theo) 6. Khả năng của quân lực Việt Nam Cộng hoàSau khi người lính tác chiến cuối cùng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam vào đầu năm 1973, quân lực Việt Nam Cộng hoà đã chiến đấu dũng cảm và đáng kính phục trong hai năm kế tiếp, để chống lại lực lượng Cộng quân được viện trợ đầy đủ hơn. Từ cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 cho đến khi Sài Gòn sụp đổ, miền Nam Việt Nam không bao giờ thua một trận lớn nào. Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân chính là một chiến thắng của miền Nam Việt Nam và là một thảm bại của quân đội miền Bắc với sự thiệt mạng của 289.000 binh sĩ riêng trong năm 1968. Ngược lại, đa số các cơ quan truyền thông đã mô tả cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân và cuộc chiến tiếp theo là một thất bại của Hoa Kỳ và chính phủ Sài Gòn. Bộ trưởng Laird trước đây và hiện nay vẫn tin rằng quân lực miền Nam Việt Nam có đủ khả năng tự vệ nếu được viện trợ đầy đủ. Miền Nam Việt Nam đã đánh bại được quân khủng bố Việt cộng bằng sự phối hợp của võ lực và sự thuyết phục, mặc dù Việt cộng được tài trợ dồi dào, trang bị đầy đủ bởi Nga Sô, được khích động theo lãnh tụ Hồ Chí Minh và mục tiêu quốc gia của ông ta. [8] Nhưng miền Nam còn phải đối phó cả với lực lượng chính quy miền Bắc. Tổng số Cộng quân là hơn 1 triệu binh sĩ vào năm 1973. Vào thời điểm này, miền Bắc đã tổn thất 1,1 triệu binh sĩ và 2 triệu thường dân. Tuy nhiên Cộng quân tiếp tục chiến đấu vì chiến thắng là tất cả đối với Bắc Việt nhưng không là gì cả đối với một dân Mỹ bình thường. 7. Hoa Kỳ chiến đấu đơn độcCũng giống như chiến tranh Triều Tiên, lúc đầu Hoa Kỳ coi thường vai trò của đồng minh, hầu như tự ý chiến đấu đơn độc ở Việt Nam với một liên minh không đáng kể. Hoa Kỳ cung cấp phần lớn tiền bạc, súng đạn, và nhân lực để giúp hai nước này chống lại cuộc xâm lăng của Cộng sản. Như Tổng thống Nixon nhận định, dân tộc Hoa Kỳ thích làm mọi việc lấy một mình và là một dân tộc thiếu kiên nhẫn. Những tính chất này đã thấm sâu vào chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Ngay trong năm đầu tiên nhậm chức, Tổng thống Nixon đề ra ba nguyên tắc sau, làm căn bản cho chính sách ngoại giao mới của Hoa Kỳ, trong một buổi họp báo tại đảo Guam vào ngày 25.7.1969: [9]
Các nguyên tắc trên đây được áp dụng vào kế hoạch “Việt Nam hoá cuộc tìm kiếm hoà bình” và được giải thích rõ ràng trong bài diễn văn của Tổng thống Nixon vào ngày 3.11.1969 về chiến tranh Việt Nam. Chính sách mới của Hoa Kỳ là giúp các quốc gia chiến đấu nhưng không chiến đấu cho những quốc gia này. [10] Chính sách này được gọi là “chủ thuyết Nixon” (Nixon Doctrine) còn nhắm vận động sự hợp tác các nước đồng minh và các quốc gia thân thiện của Hoa Kỳ. Một năm sau, trong bản phúc trình đệ trình Quốc hội, Tổng thống Nixon tuyên bố: “Hoa Kỳ không thể và sẽ không tạo ra tất cả mọi kế hoạch, phác họa ra tất cả mọi chương trình, thi hành mọi quyết định và phụ trách bảo vệ những quốc gia tự do trên thế giới. Chúng ta sẽ giúp đỡ những nơi có thể tạo sự khác biệt và được xem như hợp với quyền lợi của chúng ta.” Chủ thuyết Nixon đánh dấu sự bắt đầu của kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh. 8. Sự phản bội của Hoa KỳTheo ông Laird, trường hợp Việt Nam đã làm cho Hoa Kỳ mang tiếng là đã không yểm trợ đồng minh. Điều xấu hổ không phải là Hoa Kỳ đã có mặt ở Việt Nam lúc ban đầu mà là Hoa Kỳ đã phản bội đồng minh của Hoa Kỳ vào lúc cuối cùng. Chính Quốc hội đã ngoảnh mặt đi đối với những lời hứa liên quan đến Hiệp định Paris. Ông Laird nói Tổng thống [Gerald Ford], bộ trưởng ngoại giao [Henry Kissinger], và Bộ trưởng Quốc phòng [James R. Schlesinger] phải chia sẻ nỗi nhục nhã này. Họ đã không đứng lên để giữ những cam kết với miền Nam Việt Nam. Đặc biệt là ông Kissinger, người đã tham dự trực tiếp vào cuộc hội đàm Paris. Vào năm 1954, Hành pháp Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống hiến cử Eisenhower tỏ ra bất lực, đã để Quốc hội làm những quyết định về cuộc khủng hoảng lần thứ nhất tại Đông Dương. Lịch sử Hoa Kỳ lại tái diễn vào năm 1975. Trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Jerry Ford do hiến pháp chọn thay ông Nixon, bãi bỏ thuyết Domino và tuyên bố lấy lệ rằng sự thất bại của Hoa Kỳ tại Đông Dương không phải là ngày tận thế và cũng không phải là dấu hiệu ám chỉ rằng vai trò của Hoa Kỳ trên thế giới chấm dứt… Cuộc phiêu lưu sai lầm và bi thảm của Hoa Kỳ tại Đông Dương không làm giảm nhu cầu duy trì những cam kết quốc tế của Hoa Kỳ theo bất cứ phương cách nào. Bộ trưởng Henry Kissinger phản ứng như một đứa trẻ với cái tôi bị tổn thương nặng: “Chúng tôi thật là không đáng tin cậy… Sự phụ bạc của chúng tôi đã gây ra tai họa.” [11] Thái độ muốn bỏ rơi Việt Nam của Quốc hội Hoa Kỳ đã khá rõ ràng qua những quyết định sau đây:
9. Báo chí thay đổi lập trường 180 độ.Tờ New York Times vào ngày 3.11.1963 viết: “… Mất Việt Nam cho cộng sản có thể tăng nghi ngờ khắp mọi nơi trên thế giới về giá trị của những cam kết của Hoa Kỳ về việc bảo vệ các quốc gia chống lại áp lực của cộng sản… Ảnh hưởng của những phong trào cách mạng trên toàn thế giới sẽ rất nghiêm trọng. May mắn lắm là chủ nghĩa trung lập sẽ bành trướng trong cuộc tranh chấp Đông - Tây. Phần lớn Á châu sẽ có cảm nghĩ rằng cộng sản - dưới sự lãnh đạo và khát vọng của Bắc Kinh - sẽ là những đợt sóng của tương lai.” Gần 12 năm sau, vào ngày 24.4.1975 tờ New York Times không nhắc lại đến chuyện cũ, đưa ra lời bình luận mới như sau: “Chấm dứt cuộc phiêu lưu quân sự lầm lẫn tại Á châu sẽ làm cho vận mệnh của Hoa Kỳ dễ dàng trở về với viễn tượng của Tổng thống Lincohn.” Theo ông Laird, những kẻ đào ngũ sau cùng đã thắng và những đồng minh của Hoa Kỳ bị phản bội sau bao nhiêu cố gắng của Hoa Kỳ giúp đỡ họ đứng vững. Họ chỉ nhìn vào mặt đẹp đẽ của sự thất trận với những thay đổi hiện nay ở Việt Nam như kinh tế phát triển và liên hệ tốt đẹp với Tây phương. Họ quên cái giá trực tiếp của sự phản bội: hai triệu người tị nạn bị đẩy ra khỏi Việt Nam, 65.000 người bị hành quyết, và 250.000 người bị đưa vào các trại tù cải tạo. Ông Laird chưa kể đến hàng triệu vợ con của những người này không nơi nương tựa và hàng trăm ngàn người mất tích trên biển cả. 10. Thay phần kết luậnMột yếu tố liên hệ khác khá quan trọng mà báo chí và các chính trị gia, kể cả ông Melvin Laird, từ chối không nói đến là ảnh hưởng của chiến tranh Trung Đông giữa Do Thái với các nước Á Rập đối với Việt Nam. Từ năm 1967 đến năm 1973 đã xẩy ra hai chiến tranh ngắn ngủi nhưng đấm máu giữa Do Thái một bên và Ai Cập, Syria, Jordan, và Iraq một bên. Trận chiến 6 ngày trong tháng 6.1967 đã gây tổng số thiệt hại về nhân mạng của cả hai bên là 22.000 lính tử trận và 48.000 lính bị thương. Chiến tranh Yom Kippur trong tháng 10.1973 có tổng số thiệt hại nhân mạng của cả hai bên là 11.200 binh sĩ tử trận và 27.000 binh sĩ bị thương. Hoa Kỳ luôn luôn ủng hộ Do Thái về cả súng đạn và tài chánh. Trung Đông rất quan trọng đối với Hoa Kỳ vì ba lý do:
Sách lược quân sự của Hoa Kỳ đã thay đổi từ khả năng đương đầu với 2 ½ cuộc chiến cùng một lúc xuống còn 1 ½ cuộc chiến kể từ đầu thập niên 1970. Do đó Hoa Kỳ đã phải chọn lựa Trung Đông thay vì Đông Nam Á với áp lực của người Mỹ gốc Do Thái sau khi đã đầu tư nhiều năm vào bán đảo Đông Dương. Một vấn đề khác cần làm sáng tỏ là ai thực sự chịu trách nhiệm bỏ rơi miền Nam Việt Nam, Quốc hội, chính quyền Ford hay Nixon? Theo cựu Bộ trưởng Quốc phòng Laird, như đã trình bày ở trên, Quốc hội Hoa Kỳ là thủ phạm chính. Tổng thống Ford, và hai Bộ trưởng Kissinger và Schlesinger là phụ vì không đủ ý chí phấn đấu với Quốc hội. Nhưng theo sư phân tích của GS. Larry Berman, khi ký Hiệp định Paris 1973, Tổng thống Nixon và Bộ trưởng Kissinger đều biết rõ rằng Hiệp định này có một điểm rất bất lợi cho miền Nam Việt Nam vì nó cho phép 150,000 quân cộng sản Bắc Việt (CSBV) ở lại miến Nam Việt Nam. Những tài liệu mới giải mật do GS. Berman tìm kiếm được cho thấy Hiệp định Paris chỉ là một sự thoả thuận để cho Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam và lấy lại tù binh an toàn. Hiệp định Paris 1973 được chính quyền Nixon gọi là “Thoả hiệp Chấm dứt Chiến tranh và Tái lập Hoà bình tại Việt Nam” (Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam). Khi thoả hiệp này được Lê Đức Thọ và Henry Kissinger ký tắt tại Paris vào ngày 23.1.1973, Tổng thống Nixon tuyên bố tại Washington rằng “Hoa Kỳ không phản bội đồng minh để đánh đổi lấy hoà bình, không bỏ rơi tù binh, không chấm dứt chiến tranh đối với Hoa Kỳ, nhưng lại để chiến tranh tiếp tục đối với 50 triệu dân ở Đông Dương.” [13] Nhưng thực tế là Hiệp định Paris không đem lại hoà bình thực sự và lâu dài, đúng như ông Lê Đức Thọ tuyên bố khi ông từ chối nhận giải thưởng Nobel Hoà Bình. Hơn ai hết, ông Lê Đức Thọ biết rõ Hà Nội đã có sẵn âm mưu vi phạm hiệp định này và vẫn theo đuổi việc chiếm trọn miền Nam Việt Nam. Tổng thống Nixon biết rõ rằng việc bảo đảm hoà bình là một điều rất khó thực hiện trên căn bản Hiệp định Paris. Nhưng ông dự trù can thiệp bằng không lực, theo một thoả thuận bí mật giữ Tổng thống Nixon và ông Nguyễn Văn Thiệu, để hỗ trợ chính quyền miền Nam Việt Nam cho đến khi mãn nhiệm kỳ nếu Bắc Việt vi phạm trắng trợn. Vụ Watergate đã làm hỏng kế hoạch của ông Nixon. Bộ trưởng Kissinger đã tiên đoán rằng Bắc Việt sau cùng sẽ thắng và miền Nam sẽ chỉ đứng vững được trong một năm rưỡi. Do đó kế hoạch thực hiện “Hoà bình trong danh dự” chỉ là ảo tưởng. [14] Sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản, thuyết Domino không xảy ra ở Á châu như một số chính trị gia tiên đoán, nhưng đã có những chứng cớ hiển nhiên trong quá khứ cũng như vào hai thập niên 1970 và 1980. Một năm sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Hoa Lục vào năm 1949, cộng sản Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên và chiến tranh kéo dài đến khi hai bên chấp nhận hưu chiến vào năm 1953. Cộng sản tiếp tục bành trướng lãnh thổ ở Á châu với sự chiếm đóng miền Bắc Việt Nam vào năm 1954. Cuba trở thành một nước cộng sản đầu tiên ở Châu Mỹ Latin vào năm 1959. Vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 có thêm bốn nước theo chủ nghĩa cộng sản là Bắc Yemen, Cộng hoà Nhân dân Congo, Somalia, và Ethiopia. Ngay sau khi cộng sản đã chiếm được cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia vào mùa Xuân 1975, một loạt các nước khác rơi vào tay đế quốc cộng sản như Benin, Angola, Mozambique, Afghanistan, Grenada, và Nicaragua. Đến năm 1979 làn sóng đỏ mới ngưng. Vào thời điểm đó, chế độ cộng sản cai trị một phần ba dân số thế giới, nhưng không tồn tại được lâu. Đến cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, chế độ cộng sản tan rã tại hầu hết các quốc gia này, đồng loạt với các nước Đông Âu, Nga Sô, Trung Á, và Mông Cổ. Riêng tại Á châu, phản ứng của những nước bạn với Hoa Kỳ rất rõ ràng. Thái Lan yêu cầu Hoa Kỳ trả lại 5 căn cứ và rút 27.000 binh sĩ ra khỏi lãnh thổ trước ngày 17.3.1976. Chính phủ Phi Luật Tân đòi lại chủ quyền về Căn cứ Không quân Clark và Căn cứ Hải quân Subic, và duyệt xét lại Hiệp định An ninh giữa hai quốc gia. Kết quả là Hoa Kỳ đã hoàn trả tất cả các căn cứ Hoa Kỳ đang sử dụng cho Phi Luật Tân vào năm 1979. Tổng thống Lý Quang Diệu của Tân Gia Ba nhận định rằng Hoa Kỳ không còn khả năng để can thiệp vào vùng Đông Nam Á nữa và chỉ còn lai hai đối thủ cạnh tranh thế lực trong vùng này là Trung Quốc và Nga Sô. Nam Hàn lo sợ Bắc Hàn dùng võ lực để thống nhất hai miền như đã xẩy ra trước đó một phần tư thế kỷ. Không phải ngẫu nhiên mà Thủ tướng Bắc Hàn Kim Il Sung viếng thăm Bắc Kinh trong khoảng thời gian 18-26.4.1975 vài ngày trước khi Sài Gòn thất thủ. Lúc đó có nhiều dấu hiệu từ Bắc Kinh cho biết là Nam Hàn sẽ là một con cờ domino, nhưng không nhất thiết phải xảy ra ngay sau Việt Nam. [15] Trở lại vấn đề Việt Nam, Cộng sản chiếm đoạt được miền Nam bằng võ lực nhưng đã không chiếm được lòng dân. Chính sách xã hội hoá miền Nam và củng cố xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã thất bại hoàn toàn. Cộng sản Việt Nam đã theo đuổi một cuộc chiến mà không có kẻ chiến thắng. Chỉ có nhân dân ở cả hai miền Bắc và Nam là những kẻ thua cuộc vì phải trả một giá rất đắt bằng hàng triệu sinh mạng và đổ vỡ thê thảm về vật chất và tinh thần. Biết bao gia đình bị ly tán và đạo đức suy đồi, mà ảnh hưởng tai hại sẽ còn kéo dài qua nhiều thế hệ. Hệ thống chính trị độc đảng, công an trị ngày càng tham nhũng và trở nên thối nát. Trong khi đó người dân bị khước từ mọi quyền tư do căn bản. Sau 30 năm nhìn lại, người dân tự hỏi mục tiêu gây ra chiến tranh của Cộng sản Việt Nam là gì nếu không phải là một cuộc phiêu lưu điên rồ. Sau 10 năm thống nhất được lãnh thổ, Cộng sản Việt Nam đã không thống nhất được lòng người mà còn gây thêm hận thù và đưa đất nước xuống đáy tận cùng của vực thẳm nghèo đói và ngu dốt. Tình thế đã buộc Cộng sản Việt Nam phải thực thi chính sách cởi trói trong 20 năm qua nhưng đất nước ngày càng tụt hậu so với các nước láng giềng, xã hội ngày càng phân hoá và xa đọa. Một dân tộc không thể kiêu hãnh được nếu chỉ đứng nhất về những xấu xa và đứng hạng chót về những cái tốt. Một môi trường mô tả như trên không thể thích hợp cho sự phát triển lành mạnh và quân bình. Trong khi một thiểu số quá giàu, đa số dân chúng vẫn nghèo, không được hưởng những tiện nghi tối thiểu như nhà ở, điện, nước, y tế, giáo dục, v.v… Phát triển tại Việt Nam đòi hỏi nhiều thứ hơn là “giải phóng kinh tế bây giờ với tiềm năng có tự do dân chủ sau này… Phát triển thật sự và lâu bền phải bắt đầu bằng dân chủ.” [16] Nhiều dấu hiệu cho thấy phong trào đòi tự do dân chủ và công bằng xã hội ngày càng lớn mạnh ở Việt Nam. Các nhà nhân quyền và dân chủ ở trong nước đã mạnh mẽ công khai lên tiếng đòi hỏi tự do đi lại, tự do tôn giáo, tư do ngôn luận. Mỗi ngày hàng trăm người đến các Nhà tiếp dân để khiếu nại về việc mất đất đai và nhà cửa. Hàng ngàn công nhân bất chấp luật lệ cấm đoán, đã đình công đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc, đòi quyền sống. Các cuộc tranh đấu này được hỗ trợ của các quốc gia dân chủ Tây Phương, đặc biệt là Hoa Kỳ và 3 triệu người Việt ở hải ngoại. Chỉ khi chế độ độc đoán hiện nay được loại bỏ, kinh tế mới thật sự có môi trường phát triển toàn diện, đất nước mới có cơ hội thoát ra khỏi quốc nạn tụt hậu đã kéo dài khoảng nửa thế kỷ, dân Việt-Nam mới được thực sự giải phóng và được hưởng hòa bình thực sự. Chỉ lúc đó chiến tranh Việt-Nam mới thật sự chấm dứt đối với hơn 80 triệu người ở trong nước và 3 triệu người ở hải ngoại. Washington, DC, 25.02.2006
References
[1]Melvin R. Laird, “Iraq: Learning the Lessions of Vietnam,” Foreign Affairs, November / December 2005. |