Do Ngô Kỷ chuyển ngữ để kính tặng và tri
ân sự chiến đấu dũng cảm và tuyệt vời của những Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa
Họ dáng người thì nhỏ nhắn, nói chuyện
bằng những âm ngữ líu lo, thường chan nước mắm vào thức ăn và hay cầm lấy tay
nhau.
Chẳng ai ngạc nhiên lắm khi thấy những
quân nhân Mỹ gởi qua Đông Nam Á - phần lớn họ còn rất trẻ, có một kiến thức
nông cạn, được đào tạo trong một xã hội vị kỷ và hiểu rất ít về những nền văn
hóa khác - họ không cảm thông được tâm trạng của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH).
Thật đau lòng khi có nhiều cựu chiến binh
Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam lại đi cấu kết với cái đám phản chiến cấp tiến,
những tên trốn quân dịch và bọn chính khách hoạt đầu xúm nhau bôi nhọ danh dự
của một Quân Lực đã chẳng còn có cơ hội để được tự bào chữa. Nhục mạ một quân
đội đã sa cơ trên chiến trường vì bị Hoa Kỳ phản bội là một hành động đê tiện
và bất xứng của những người Hoa Kỳ.
Có thể một số quý vị sẽ ngạc nhiên về lý
luận của tôi. Làm sao tôi có thể biện hộ cho quân lực VNCH được? Phải
chăng tất cả binh sĩ VNCH đều thuộc loại bất tài, xảo trá và hèn nhát?
Không, không phải vậỵ Trong bài này tôi sẽ vạch ra một số bằng chứng xác
đáng để phản bác lại cái luận điệu đê hèn đó và phân tích lý do tại sao cái
luận điệu đó phát sinh. Dĩ nhiên, quân đội VNCH không toàn hảo. Họ
cũng có một số lãnh đạo tồi tệ, một số lính tráng hèn nhát, vài ba lần hoảng
hốt bỏ chạy, xằng bậy và hung bạo. Tuy nhiên, các điều này cũng đã từng xảy ra
đối với quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Đông Nam Á.
Trong một số lãnh vực như: tổ chức, tiếp
vận, tham mưu và chỉ huy, quân đội VNCH thua kém quân đội Hoa Kỳ thật.
Nhưng họ làm gì khác hơn được khi đất nước họ là đất nước đang phát triển, họ
mới giành độc lập từ tay chế độ thuộc địa và bất ngờ lao vào một trận chiến
khốc liệt, đối đầu với kẻ thù hung hăng được vũ trang hùng hậu từ cả khối Cộng
Sản? Thật ra, các khuyết điểm của quân đội VNCH có cũng giống như các
khuyết điểm mà quân đội Hoa Kỳ mắc phải trong Trận Chiến Dành Độc Lập, dù rằng
Hoa Kỳ vào thời cuối thế kỷ 18 đó có nhiều lợi điểm hơn, như:
- Tầm vóc của Cuộc Cách Mạng Dành Độc Lập
hạn hẹp hơn và dễ điều khiển hơn.
- Khác với sự bị trị của Việt Nam, Hoa Kỳ
qua kinh nghiệm bị trị đã nuôi dưỡng tinh thần tự trị địa phương và tạo thuận
lợi cho quốc gia đào tạo nên những nhà lãnh đạo ưu tú.
- Quân đội Hoàng Gia Anh không bền bỉ như
quân đội Bắc Việt.
- Có phải các binh sĩ Hoa Kỳ giỏi giang
hơn các chiến hữu đồng minh của họ đến độ người Mỹ đối xử miền Nam Việt Nam với
một thái độ khinh rẻ như vậy.
Câu trả lời cho cả hai câu hỏi trên là: "Không!"
Bằng chứng cho câu trả lời đó thật rõ ràng.
Ý đồ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của Cộng quân là bẻ gẫy ý chí pḥòng thủ của
miền Nam Việt Nam. Nhưng chúng đã thất bại, binh sĩ VNCH đã chống trả một
cách quyết liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào bị tan rã hay tháo chạỵ
Thậm chí cảnh sát cũng đã chiến đấu, họ dùng cả súng lục để bắn lại bộ đội
chính quy của Bắc Việt trong khi những người bộ đội CS này thì lại được võ
trang với vũ khí hạng nặng. Theo báo cáo cho thấy là vào thời điểm đó, số
người tình nguyện nhập ngũ lên quá cao, đến nỗi chính phủ phải ngưng tuyển mộ
lính trong một thời gian.
Trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, các
binh sĩ VNCH bị vây hãm tại An Lộc đã anh dũng tử thủ chống trả lại lực lượng
hùng hậu của địch, cùng với những trận mưa pháo bất tận, và cuối cùng họ đã đè
bẹp được những trận tấn công liên tục của các chiến xa địch quân. Sau đó,
tôi được một cố vấn Mỹ kể lại chuyện một tiểu đội bộ binh VNCH được lệnh phải
phá hủy 3 chiếc xe tăng của địch. Ông kể:
- Các binh sĩ của tiểu đội này phá hủy được
một chiếc xe tăng, rồi sau đó họ lại tự quyết định bắt sống hai chiếc xe tăng
kia. Họ rượt bộ và bắt được thêm một chiếc nữa, còn chiếc kia thì
chạy thoát. Khi trở về pḥòng tuyến, họ bị khiển trách nặng nề.. vì đã để
chiếc xe tăng kia tẩu thoát."
Tuy hành động của tiểu đội lính này không
đúng với quân kỷ lắm, nhưng cái hành động đó đã nói lên tinh thần chiến đấu cao
độ và sáng kiến tác chiến của rất nhiều binh sĩ VNCH. Chắc chắn sự kiện trên
không thể hổ trợ luận điệu cáo buộc họ hèn nhát được.
Một chứng cớ điển hình hơn, trong những
giờ phút cuối cùng của miền Nam Việt Nam năm 1975, khi mà nỗi tuyệt vọng bao
trùm lên cả đất nước họ, khi mà biết rõ rằng Hoa Kỳ sẽ không yểm trợ gì nữa (ngay
cả nhiên liệu và đạn dược); ấy thế mà một sư đoàn VNCH đã anh dũng cầm cự chiến
đấu với bốn sư đoàn quân Bắc Việt trong suốt hai tuần lễ tại Xuân Lộc. Trên mọi
bình diện, trận chiến Xuân Lộc đó cũng hào hùng như bất cứ trận chiến nào trong
quân sử Hoa Kỳ. Các binh sĩ VNCH cuối cùng đã phải rút lui vì không lực
của họ không còn bom cluster để yểm trợ cho lực lượng bộ binh đụng trận dưới
đất. Có lần tôi được coi một phim tài liệu truyền hình nói về một người
phóng viên Úc đặc trách quay phim chiến trường. Khác với các phóng viên
Mỹ, ông ta dành nhiều thì giờ theo sát binh sĩ VNCH. Ông ta công nhận
tinh thần chiến đấu anh dũng của họ, và để minh chứng điều đó, ông đã cho trình
chiếu cả cuốn phim. Ông ta nhớ lại rằng, trong chuyến thăm viếng một khu
làng do địch quân kiểm soát, ông được nghe kể rằng Cộng Sản sợ binh sĩ VNCH hơn
là sợ binh sĩ Mỹ. Cái lý do chính là binh sĩ Mỹ quá ồn ào, do đó địch
quân luôn nghe trước được đường tiến quân của họ. Làm sao có được điều so
sánh này nếu trên thực tế các binh sĩ VNCH không thuộc loại lính thiện chiến.
Tuy nhiên, cái chứng cớ quan trọng nhất để
chứng minh tinh thần chiến đấu cao độ của binh sĩ VNCH nằm trong hai sự kiện
thật đơn giản và rõ ràng sau đây, dù rằng các sự kiện này thường bị làm ngơ
hoặc giả vờ không biết nhằm che đậy sự thất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Sự kiện thứ nhất:
Chiến tranh đã bắt đầu từ 7 năm trước khi quân đội tác chiến Hoa Kỳ bước chân
vào Việt Nam, và trận chiến đó vẫn tiếp tục kéo dài suốt 5 năm sau khi Hoa Kỳ
rút quân. Phải có những người đứng ra chiến đấu trong thời gian đó, và không ai
khác hơn là các binh sĩ VNCH.
Sự kiện thứ hai:
Có độ 1/4 triệu binh sĩ VNCH hy sinh trong cuộc chiến. Nếu đem so sánh tỷ
lệ dân số hai nước, thì con số này phải tương đương với khoảng hai triệu người
Mỹ chết (gấp đôi tổng số thương vong của tất cả cuộc chiến Hoa Kỳ cộng lại).
Bạn không thể tổn thất lớn lao như vậy nếu bạn không thực sự chiến đấu.
Thế thì tại sao thanh danh quân đội VNCH
lại bị xúc phạm nặng nề như vậy?
Dĩ nhiên quân đội VNCH cũng có một số lần
chiến đấu kém hiệu năng hoặc bị khủng hoảng, nhưng các trường hợp này cũng từng
xảy ra trong quân đội Hoa Kỳ. Tôi biết một vị chỉ huy đơn vị pháo binh
Hoa Kỳ đã có lần ra lệnh trực xạ vào địch quân vì lực lượng bộ binh Mỹ "bảo vệ"
cho căn cứ pháo binh đã hốt hoảng tháo chạy trước hỏa lực hùng hậu của địch.
Sự kiện trên không có nghĩa là toàn thể
quân đội Hoa Kỳ hèn nhát, và đôi lần thất bại của binh sĩ VNCH cũng không có
nghĩa là toàn thể quân đội VNCH hèn nhát. Dù vậy, người ta lại rất dễ tin
như thế khi được nghe kể lại từ chính miệng các cựu chiến binh Hoa Kỳ hoặc từ
các chính trị gia nhằm chạy tội cho chính phủ Hoa Kỳ về việc bỏ rơi miền Nam
Việt Nam trong cơn hấp hối.
Sự thật của vấn đề được diễn tả khéo nhất
qua mẩu đối thoại cách đây gần hai thế kỷ khi một mệnh phụ Anh hỏi Quận Công
Wellington rằng: "Có bao giờ quân Anh tháo chạy trên chiến trường không?"
Vị Thiết Quận Công này trả lời: "Thưa bà, tất cả binh sĩ đều bỏ chạy trên chiến
trường."
Chỉ cần lướt qua quân sử cũng đủ để xác
nhận điều này. Trong suốt cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, chúng ta đã thấy rất
nhiều tấm gương can đảm nhưng cũng không thiếu gì các hành động khiếp nhược.
Trên mặt trận, lúc đầu binh sĩ của hai phe Nam Bắc đều chiến đấu rất dũng cảm,
rồi pḥòng tuyến vỡ, rồi bỏ chạy, rồi tái phối trí và chiến đấu trở lại.
Không có quân đội nào được xem là có lòng hy sinh anh hùng hơn họ, nhưng những
binh sĩ tham dự trận nội chiến này cũng không tránh khỏi những lúc thất điên
bát đảo, và đó cũng là chuyện thường tình trên chiến trường..
Tác giả S.L.Ạ Marshall đã tường thuật
chuyện một đại đội lính Mỹ trong Đệ Nhị Thế Chiến đã tháo chạy tán loạn trước
tiếng la ré xung phong của một toán lính Nhật. Nhưng đại đội lính Mỹ khác thì
lại tiếp tục chiến đấu, giết sạch hết toán lính Nhật (độ 10 người), và khám phá
ra rằng hầu hết những tên lính Nhật này không võ trang gì cả. Nếu chuyện
trên xảy ra cho một đơn vị quân đội VNCH, thì chắc chắn những kẻ muốn bôi nhọ
quân đội này sẽ lợi dụng đó như là một "cơ hội bằng vàng" để mạ lị rằng toàn
thể quân lực VNCH là hèn nhát.
Tại sao vậy? Tôi đã nêu ra câu trả
lời rồi. Tất cả tùy thuộc vào màu da và ngôn ngữ của các binh sĩ liên hệ. Sự
thật bỉ ổi là việc mạ lị quân đội VNCH lại xuất phát từ tinh thần kỳ thị chủng
tộc và bồng bột của nền văn hóa Hoa Kỳ.
Tôi có thể làm chứng cho việc xuyên tạc
đầy ác ý và phổ quát này. Khi vừa đến Việt Nam vào tháng 6 năm 1969, tôi
đã chứng kiến ngay sự ngu ngơ và thái độ khinh bỉ của một số người Mỹ đối với
nhân dân và quân đội VNCH. Cái thái độ đó nằm trong mọi tập thể quân nhân
da trắng lẫn da đen, trong các giới dân sự cũng như ký giả Hoa Kỳ. Phong
trào thù ghét đất nước và nhân dân Việt Nam bị lan tràn như một thứ bệnh dịch
truyền nhiễm đáng ngạc nhiên.
Tôi quen một viên đại úy Hoa Kỳ tốt nghiệp
về môn điện ảnh từ một viện đại học danh tiếng (một ngành chuyên môn được dùng
để giúp nâng cao tŕnh độ nhận thức quan sát). Khi viên đại úy này trở
lại đơn vị sau một chuyến công tác ngắn tại Thái Lan, anh ta ca ngợi đáo để dân
tộc Thái Lan. Anh nói rằng: "Dân Thái Lan cho con cái đi học khác hẳn với
dân Việt Nam". Anh ta ngạc nhiên nhưng lại không lộ vẻ hối hận khi tôi
chỉ cho anh thấy một ngôi trường Việt Nam sát nách doanh trại chúng tôi.
Bất cứ ai có mắt cũng đều thấy hàng trăm em học sinh mặc đồng phục quần xanh áo
trắng qua lại mỗi ngày, chỉ trừ anh chàng phim ảnh này không nhìn thấy các em
mà thôi.
Thật là mỉa mai khi người Việt Nam có
tiếng hiếu học hơn người Mỹ, và miền Nam Việt Nam đã nâng cao được mức biết đọc
biết viết từ 20% lên 80% trong khi đất nước chiến tranh triền miên (và mặc dù
Cộng Sản chủ trương giết hại các giáo chức), thế mà lại bị anh chàng phim ảnh
này cho rằng Việt Nam không có trường học. Vì bị gởi đi chinh chiến xa
xôi và bị cách biệt gia đình, nên anh Mỹ này nảy sinh lòng oán ghét Việt Nam,
và tạo nên thành kiến rằng mọi người Việt Nam đều đáng khinh. Do đó,
trong đầu anh cứ ám ảnh là Việt Nam không có trường học, dần rồi cái tâm lý
bệnh hoạn đó đã làm hư đi cái khả năng nhận thức và đánh lừa cả thị giác của
anh.
Hãy tưởng tượng cái tâm trạng của một tập
thể lính Mỹ ít học, sống giữa một nền văn hóa xa lạ và thần kinh lúc nào cũng
bị căng thẳng ra sao?! Có lẽ chúng ta không nên trách cứ những người lính
thiếu học này, lỗi là do nơi các cấp chỉ huy Hoa Kỳ đã huấn luyện họ hiểu một
cách mơ hồ về đất nước Việt Nam cũng như về thực chất của cuộc chiến.
Tuy nhiên, đó không phải là cái cớ để các
cựu chiến binh Mỹ huênh hoang rằng họ hiểu những cái mà họ đã thấy tại Việt
Nam. Các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam cần được vinh
danh về các đức tính can đảm, hy sinh, ái quốc của họ. Nhưng can đảm và
hy sinh không đồng nghĩa với kiến thức. Đánh giặc tại Việt Nam không làm
cho những người lính này trở thành những chuyên viên thông thạo về đất nước
hoặc cuộc chiến Việt Nam, cũng như việc mang nặng đẻ đau không thể biến người
đàn bà trở thành một chuyên gia về thai nhi học được.
Giới truyền thông Mỹ cũng chẳng khá gì hơn.
Trong một phóng sự đầy thành kiến, tôi nghe một phóng viên lên án Không Lực VNCH
- dù đã được tân trang qua chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh - thế mà lại "đẩy
cho Không Quân Hoa Kỳ" thực hiện những phi vụ nguy hiểm ngoài Bắc Việt.
Trên thực tế Hoa Kỳ không muốn Không Quân VNCH bay ra Bắc (chỉ trừ vài phi vụ
oanh tạc ban đầu). Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn kiểm soát kế hoạch oanh
tạc để dùng nó như một lá bài thương thuyết. Vì không muốn miền Nam Việt
Nam có bất cứ quyền kiểm soát nào trong chính sách oanh tạc, Hoa Kỳ đã trang bị
cho Không Quân VNCH những vật dụng không thích hợp cho các phi vụ ra Bắc.
Miền Nam Việt Nam không được cung cấp oanh tạc chiến đấu cơ, phi cơ tiếp liệu
trên không, vũ khí hay các dụng cụ điện tử cần thiết cho các phi vụ này.
Đó là quyết định của người Mỹ.
Câu hỏi đặt ra là có phải người phóng viên
truyền hình nêu trên dốt đặc về sự kiện đó hay giả vờ không biết nhằm đi hạ
nhục những đồng minh của Hoa Kỳ. Dựa vào các lời lẽ lố bịch, chói tai và
thanh âm của anh ta, tôi kết luận rằng anh ta chủ mưu làm như vậỵ. Một
thí dụ khác nói lên cái thành kiến của giới truyền thông, đó là trận chiến vây
hãm Khe Sanh. Nếu bạn đi hỏi một ngàn người Mỹ từng nghe biết về trận
đánh này rằng đơn vị nào chiến đấu tại Khe Sanh, thì có lẽ hầu hết đều trả lời
là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Nhưng sẽ làm họ ngạc nhiên nếu có một
người trong số ngàn người đó nói rằng có một tiểu đoàn Biệt Động Quân VNCH đã
cùng chia sẻ nỗi gian lao với các đồng minh Thủy Quân Lực Chiến Hoa Kỳ trong
trận chiến ngặt nghèo đó. Có nhiều đơn vị VNCH khác cũng đã hổ trợ chiến
đấu bên ngoài vòng đai căn cứ Khe Sanh.. Giới truyền thông Mỹ không đếm
xỉa đề cập đến các chiến hữu đồng minh của Hoa Kỳ, mà họ chỉ để ý đến những
điều bê bối thôi, bởi vậy những binh sĩ VNCH chiến đấu cam khổ này đã bị trở
thành những chiến sĩ "vô hình" của Khe Sanh.
Tất cả thành kiến - trong quân đội cũng
như trong truyền thông - được thể hiện rõ ràng qua các bản tin chiến sự về cuộc
hành quân Hạ Lào năm 1972.
Trong cuốn phim tài liệu truyền hình mười
năm trước đây, có một đoạn phỏng vấn lính Mỹ trong lúc chiến trường Hạ Lào đang
tiếp diễn. Các lính Mỹ được phỏng vấn này đang sống an toàn tại hậu cứ
Nam Việt Nam. Họ "giải thích" về sự chiến đấu của quân đội VNCH với những lời
lẽ khinh bỉ và kỳ thị. Thế mà sau đó người phóng viên này đã ca ngợi khen
mấy người lính G.I Mỹ đó am tường về tình hình chiến sự hơn là các nhà tướng
lãnh Hoa Kỳ.
Trận Hạ Lào đã trở thành đề tài vì
nó có liên quan đến một tấm hình có cảnh người lính VNCH bám vào cái càng máy
bay trực thăng để trốn chạy khỏi chiến trường. Tấm hình này bị bêu riếu
khắp nước Mỹ ngày này qua tháng nọ như là một "bằng chứng" về sự khiếp nhược
của quân lực VNCH. Thực tế, đây là một trò cổ điển nói lên mãnh lực của
sự xuyên tạc hình ảnh. Thật ra thì sự việc nó diễn tiến như sau:
Binh sĩ VNCH bị tấn công bởi một lực lượng Cộng quân hùng hậu. Quân đội
Hoa Kỳ đã thất bại trong việc yểm trợ như đã hứa vì hỏa lực phòng không của
địch quá mạnh. Những báo cáo cho biết là lính trên trực thăng đã đạp
những thùng đạn đại bác từ cao độ 5,000 feet xuống với hy vọng chúng sẽ rơi vào
vòng đai của quân đội VNCH. Các trực thăng đó đã không thể nào bay thấp
hơn được.
Đại tá Robert Monelli, một sĩ quan Hoa Kỳ
có mặt trong mặt trận đó đã kể lại trên báo Armed Forces Journal số 19 tháng 4
năm 1972 như sau: "Một tiểu đoàn VNCH với 420 binh sĩ bi bao vây liên tiếp
trong ba ngày bởi một trung đoàn Cộng Sản độ 2,500 đến 3,000 tên. Quân
đội Hoa Kỳ không thể tiếp tế cho họ được. Họ phải chiến đấu cho tới khi
gần hết đạn, rồi mở đường máu bằng khí giới tịch thu của địch. Họ đã mang
theo tất cả binh sĩ bị thương và cả một số xác chết. Không ảnh thám sát
chụp được rõ ràng có 637 xác địch rải rác chung quanh căn cứ. Về phía
quân đội VNCH, tiểu đoàn trên chỉ còn lại có 253 binh sĩ sau khi đến được vòng
đai bạn. Chừng 17 người trong số binh sĩ này bị khủng hoảng và đã bám vào
càng trực thăng để chạy trốn, số binh sĩ còn lại thì không làm như vậỵ"
Bây giờ, có thể một số người cho rằng hành
động bám vào càng trực thăng đang bay và dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không
địch là một hành động gan dạ. Hãy xếp đề tài đó qua một bên, tôi muốn đề
cập đến việc là tại sao chỉ có một trường hợp riêng lẻ như vậy - xáp lá cà mở
đường máu rút lui (được coi là một chiến thuật khó khăn nhất trong binh thư)
lại bị thổi phồng để đi lên án cả một quân lực, cả một quốc gia, cả một dân tộc?
Câu trả lời là tại vì kỳ thị chủng tộc.
Các người lính VNCH bám lủng lẳng vào trực thăng bị coi là những tên ngoại quốc
hợm hĩnh. Nhưng nếu là lính Mỹ, hay cả lính Anh, thì hành động này đã gây
được lòng trắc ẩn vì được biện minh rằng họ vừa trải qua một cuộc thử thách đầy
cam go. Bằng cớ cho lập luận này có thể thấy được qua cái phản ứng của
người Mỹ đối với cuộc rút lui của binh sĩ Hoàng Gia Anh trong những ngày đầu
của trận Đệ Nhị Thế Chiến. Từng có một số lần nhục nhã đã xảy ra trong quân đội
Hoàng Gia Anh tại Dunkirk và nhiều nơi khác. Tại Dunkirk, một trung sĩ
trên một chiếc tàu cấp cứu đã chĩa súng tiểu liên vào các binh sĩ khủng hoảng
để duy trì trật tự. Trên một con thuyền khác, binh sĩ phải dùng báng súng
đánh vào đầu một viên sĩ quan để ông ta khỏi leo qua mép thuyền làm nước tràn
vào. Tại Crete, một lữ đoàn Tân Tây Lan phải lập vòng đai an toàn quanh biển
bằng dao găm để ngăn chặn binh sĩ Hoàng Gia Anh tràn ngập lên thuyền. Cái hình
ảnh quân đội Hoàng Gia Anh đơn thân độc mã chống lại Hitler năm 1940 thì ca
ngợi là một biểu tượng đầy đủ dữ kiện, còn những trường hợp riêng lẻ như các
trường hợp kể trên không được phép làm hoen ố cái bức tranh toàn cảnh dũng cảm
và tận tụy của những người lính chiến.
Thành thật mà nói thì quân đội VNCH đã
chiến đấu một cách tầm thường trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, ngoại
trừ trận đánh hào hùng và tuyệt cú tại mặt trận Xuân Lộc. Nói vậy chứ nó cũng
có những nguyên do của nó. Và cũng có nhiều yếu tố để ta tin rằng nếu
nhận được sự yểm trợ chân thành từ phía Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã có thể tạo
được những trận thư hùng như kiểu Xuân Lộc, và không chừng ngay cả việc họ đã
cứu vãn được đất nước.
Vấn đề đặt ra đây một lần nữa không phải
đề bàn đến cách ứng xử của miền Nam Việt Nam, nhưng chính là đem so sánh cách
ứng xử của họ với Hoa Kỳ để xem liệu Hoa Kỳ ứng xử ra sao nếu Hoa Kỳ bị nằm
trong một hoàn cảnh, tình huống tương tự. Và thật sự - nếu binh sĩ Hoa Kỳ
bị bỏ rơi giống như Hoa Kỳ đã cắt viện trợ Miền Nam Việt Nam một cách nặng nề
trong năm 1974, nhiều tháng trước khi địch quân mở những trận tổng công kích
lần chót. Hậu quả là chỉ có rất ít nhiên liệu và đạn dược cung cấp cho
miền Nam Việt Nam. Phi cơ và quân xa của VNCH bị nằm ụ vì thiếu phụ tùng.
Binh sĩ phải ra trận với máy truyền tin mà không có batteries, và các toán cứu
thương thiếu cả các loại thuốc thang căn bản. Pháo binh thì bị giới hạn
bắn được ba trái đạn mỗi ngày trong ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tình
trạng bi đát đến nỗi tư lệnh quân đội Bắc Việt xâm lăng miền Nam Việt Nam,
tướng Văn Tiến Dũng cũng thừa nhận rằng khả năng di động và hỏa lực của quân
đội VNCH đã sút giảm phân nửa. Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp về vật
chất, chúng ta cũng phải để ý đến những tác hại tinh thần đối với các binh sĩ
VNCH. Lợi dụng tình thế bi thảm này, quân đội Bắc Việt đã ào ạt tấn công với
đầy đủ vũ khí tối tân, chiến xa và đại bác di động.
Vâng, quân đội VNCH đã bại vong. Họ
đã vất bỏ các chiến cụ (phần lớn đã không còn dùng được vì thiếu phụ tùng) và
một số đạn dược (số đạn mà họ đã dành dụm tối đa cho đến khi nó trở thành quá
muộn để bắn, bởi vì họ biết rằng sẽ không bao giờ nhận được tiếp tế nữa).
Vậy thì lỗi của ai? Của họ... .hay của Hoa Kỳ?
Vâng, miền Nam Việt Nam rút quân khỏi các
tỉnh cao nguyên e có phần trễ và vụng về, đưa đến sự khủng hoảng và sụp đổ.
Nhưng làm sao chính phủ miền Nam Việt Nam lại cam tâm bỏ rơi đồng bào họ sớm
hơn trước được, khi mà địch quân chưa tung ra một áp lực nào? Đã có lúc
miền Nam Việt Nam hy vọng oanh tạc cơ B52 Hoa Kỳ sẽ trở lại giúp họ ngăn chặn
làn sóng tiến quân của Cộng Sản. Nhưng khi rõ ràng là việc này sẽ không
xảy ra, binh sĩ trở nên hoang mang là một điều dễ hiểu thôi. Tinh thần
chiến đấu suy sụp, nhiều binh sĩ bị bỏ ngũ - không phải họ hèn nhát hay không
muốn chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nhưng bởi vì họ không muốn chết một cách vô ích
trong khi gia đình đang cần.
Liệu Hoa Kỳ đã có thể làm gì khá hơn nếu ở
trong tình trạng y hệt miền Nam Việt Nam thời 1975? Liệu các đơn vị Hoa
Kỳ có tiếp tục hăng say chiến đấu trong lúc quân xa và hệ thống truyền tin thì
hư hỏng, y tế thì què quặt, nhiên liệu và đạn dược thì thiếu thốn, không được
máy bay yểm trợ - lại phải đương đầu trước một địch quân hùng hậu hỏa lực, đầy
đủ tiếp liệu và tinh thần phấn khởi? Tôi không tin như vậy.
Liệu miền Nam Việt Nam có thể chiến thắng
vào năm 1975 nếu chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho họ một số lượng tương
đương với số tiếp liệu mà khối Cộng Sản đổ vào Bắc Việt? Câu trả lời
không ai biết được. Nhưng chắc chắn một điều là họ cũng có được cơ hội
chiến đấu bình đẳng, thế mà Hoa Kỳ đã phản bội tước đi cái cơ hội này của họ.
Chắc chắn họ đã có thể chiến đấu một cách hiệu quả hơn. Rồi dù có thua,
họ cũng thua một cách hào hùng trong một trận chiến để đời, và biết đâu đã
chẳng tạo được một cuộc kháng chiến thần thánh như A Phú Hãn.
Ví dù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn
toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng
họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực, mà trái lại người
Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục
mạ quân lực VNCH đã sai lầm.
Bây giờ đã quá trễ
để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền Nam Việt Nam vào
tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việc nhục
mạ họ. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũng cảm
của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do.